Kinh Phật Thuyết A Di Đà giảng thuật – phần 02

Tác giả: Thích Huyền Châu

KINH PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ GIẢNG THUẬT, PHẦN 02 – THÍCH HUYỀN CHÂU CHỦ GING

CHƯƠNG II: BIỆT GIẢI KINH VĂN

Kinh văn:

Như thị ngã văn: Nhứt thời Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên, dữ đại Tỳ kheo tăng, thiên nhị bá ngũ thập nhân câu.

Dịch nghĩa:

Tôi nghe như vầy: một thuở nọ, đức Phật ở nước Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc, cùng với 1.250 vị đại Tỳ kheo vân tập đông đủ.

Giảng:

Chúng ta thấy câu kinh mở đầu hội đủ 6 yếu tố gọi là “lục chủng thành tựu”. Đây là vấn đề vô cùng quan trọng đối với một người học kinh, vì nó chính là điều kiện thành tựu tất yếu, xác chứng nội dung kinh do đức Phật dạy, chính tai ngài A Nan cùng với thính chúng nghe và thuật lại.

Tôi nghe gọi là thành tựu về nghe (văn thành tựu). Như vầy gọi là thành tựu về pháp. Pháp đúng như vậy là pháp đáng tin nên gọi là “tín thành tựu”.

“Tôi nghe như vầy” hàm chứa ý nghĩa có người nghe và pháp được nghe. Người nghe chính là ngài A Nan và pháp được nghe chính là Kinh Phật Thuyết A Di Đà. Tuy có 4 chữ như vậy, nhưng trong đó hàm chứa nghĩa lý thật là bất khả tư nghì.

Chữ “như thị” có nghĩa thế nào? Như, tức là tĩnh; thị, tức là động. Mọi sự vận hành trong vũ trụ nhân sinh đều không ra ngoài hai nguyên lý tĩnh và động. Thế giới này được hình thành từ yếu tố vọng chấp của bản ngã và khả năng tĩnh tại bất sinh bất diệt của chân tánh. Con người và các chúng sinh khác cũng đều sống trong hai trạng thái đó. Cho nên từ việc thể nghiệm chân lý tĩnh – động, chúng ta hãy nói năng như chánh pháp và im lặng như chánh pháp. Nói sao cho đúng và nói những gì đáng nói, nếu không biết thì im lặng và không đáng nói thì cũng nên giữ sự yên lặng.

Qua đó, chúng ta hãy nghĩ xem, hằng ngày mình nghe cái gì? Có phải mình thường nghe tiếng động, nghe âm thanh, và nghe tiếng nói hay không? Vậy có khi nào chúng ta tự mình lắng nghe sự yên lặng của lòng mình hay chưa? Tôi khuyên rằng các vị hãy thực tập hạnh lắng nghe, nghe sự yên lặng của lòng mình, và tập xả ly những thanh âm vang vọng trong đó thì các vị sẽ cảm nhận sâu sắc giá trị chân hạnh phúc.

Câu kinh: “Tôi nghe như vầy”. Tôi ở đây là ai? Đó chính là Tôn giả A Nan. Thế ngài A Nan đã chứng quả A la hán thì cái ta không còn, vậy sao ngài lại nói là “tôi nghe”? Do vì phương tiện kiết tập kinh điển lưu truyền hậu thế, nên ngài nói như vậy. Nhưng tại sao ngài không mở đầu bằng một câu gì khác mà phải là “Tôi nghe như vầy”?

Chuyện thế này, khi nghe tin 3 tháng nữa đức Phật sẽ nhập niết bàn, Tôn giả A Nan, vị thị giả hầu cận của Phật cảm thấy sự mất mát quá lớn. Đối với ngài, đây là hung tin còn hơn chúng ta bị mất một người cha mẹ kính thương, nên ngài đã than khóc thảm thiết, chẳng màng đến việc gì nữa cả. Trong lúc ấy, Tôn giả A Na Luật, bậc thiên nhãn đệ nhất, nhìn thấy những việc cần thiết phải bạch Phật, nên đã gọi Tôn giả A Nan đến nhắc nhở rằng:

– A Nan, đức Thế Tôn sắp nhập niết bàn, ông còn nhiều việc phải làm, cớ sao chỉ biết ngồi đó than khóc thảm thiết như vậy?

Tôn giả A Nan trả lời:

– Thưa đại sư huynh, Thế Tôn sắp niết bàn, giống như mặt trời sắp diệt mất, tôi còn gì để mà thưa thỉnh?

Ngài A Na Luật đáp rằng:

– Vì chúng sinh đời sau, vì lợi ích trời và người, ông hãy bạch hỏi Thế Tôn bốn việc, nếu không thì muộn mất. Việc thứ nhất, khi đức Phật còn tại thế, chúng con tôn Phật làm thầy, sau khi Phật niết bàn, chúng con lấy ai làm thầy? Việc thứ hai, khi đức Phật còn tại thế, chúng con trụ vào Phật, sau khi Phật niết bàn, chúng con phải trụ vào đâu? Việc thứ ba, khi đức Phật còn tại thế, những tỳ kheo bất trị đều không dám trái lời Phật dạy, vậy sau khi Phật niết bàn, với những tỳ kheo như thế chúng con phải làm sao? Việc thứ tư, sau khi đức Phật niết bàn, chúng con kiết tập kinh điển lưu lại làm lợi ích cho đời sau, vậy chúng con dùng chữ gì đầu tiên ở các bản kinh?

Nghe như thế, Tôn giả A Nan gạt nước mắt đến bạch Phật, được đức Phật dạy:

Thứ nhất, sau khi Như Lai niết bàn, các ông phải lấy giới luật làm thầy. Thứ hai, sau khi Như Lai niết bàn, các ông phải trụ vào pháp Quán tứ niệm xứ. Thứ ba, với những tỳ kheo bất trị, các ông hãy giữ thái độ im lặng, bất hợp tác với họ. Thứ tư, khi kiết tập kinh điển, các ông phải dùng chữ “tôi nghe như vầy” ở đầu các bản kinh.

Qua đó, chúng ta thấy chữ “tôi nghe như vầy” có một sự giáo huấn rất đặc biệt của đức Phật. Tất nhiên điều đó còn có nhiều lợi ích khác nữa.

Ngoại đạo đương thời, họ thường dùng chữ “có” hoặc “không” ở đầu mỗi kinh, vì giáo nghĩa của họ hoặc là rơi vào chấp đoạn, tức là cho rằng cát bụi trở về cát bụi, chết thì hết; hoặc là họ rơi vào chấp thường, tức là con người nếu có chết cũng sẽ đầu thai trở lại làm người, mà đã là loài vật thì mãi là loài vật. Nên kinh Phật đầu tiên phải dùng chữ “Như thị ngã văn” để có sự phân biệt không thể lẫn lộn với kinh thư ngoại đạo.

Ngoài ra như chúng ta biết, Tôn giả A Nan có tướng hảo vô cùng. Lúc kiết tập kinh điển tại động Tất Bát La ngài chỉ có 49 tuổi. Hơn nữa, khi chứng thánh quả, mỗi cử chỉ của ngài toát ra như một bậc xuất thế. Do đó trong hội chúng gồm 500 vị A la hán, có nhiều người khởi niệm hoài nghi. Nhìn thấy Tôn giả A Nan nhưng họ lại nghĩ rằng: “Có phải chăng đức Phật thị hiện trở lại để kiết tập kinh, hay đức Phật ở phương nào đến kiết tập, hay Tôn giả A Nan đã chứng quả vị Phật, v.v…?” Nhưng khi nghe ngài A Nan cất tiếng nói “tôi nghe như vầy” thì mọi người đều biết đó chính là Tôn giả A Nan chứ không phải ai khác. Đặc biệt, câu nói “tôi nghe như vầy” có hàm ý khẳng định rõ ràng về những gì ngài sắp trùng tuyên lại, đây là chính tai ngài nghe đức Phật dạy chứ không phải nghe lại từ người khác.

Như vậy, “tôi nghe như vầy” là lời xác tín giáo nghĩa ở đầu mỗi kinh, ấy chính là sự thành tựu về niềm tin.

Một thuở nọ là từ chỉ thời gian, gọi là “thời thành tựu”.

Chúng ta biết ngày xưa lịch số mỗi nơi có sự khác nhau. Theo lịch Ấn Độ thì đức Phật đản sanh vào ngày Rằm tháng 2, nhưng so với lịch số Trung Hoa thì vào ngày mồng 8 tháng 4. Sau này đại hội Phật giáo thế giới vào năm 1950 thống nhất lấy ngày 15 tháng 4 (ÂL) tổ chức Đại lễ Đản sanh kỷ niệm ngày đức Phật thị hiện. Thậm chí ngay cả lịch số ở tại Ấn Độ mỗi nơi cũng có sự khác biệt. Cho nên kinh văn chỉ dùng từ “một thuở nọ” chứ không nêu cụ thể là vào thời điểm nào. Ở đây hàm ý rằng kinh này do chính tai ngài A Nan nghe vào một thời điểm nhất định. Ấy chính là thành tựu về thời gian.

Phật gọi là thành tựu về chủ (chủ thành tựu). Tức là kinh này do kim khẩu thanh tịnh của đức Phật nói. Đức Phật là vị chủ thuyết giáo nghĩa kinh này.

Thế Phật là gì? Nói một cách vắn tắt: Phật là một đấng giác ngộ đầy đủ 3 phương diện tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Và bất kỳ một vị Phật nào cũng đầy đủ ba thân: Pháp thân, hóa thân và báo thân. Pháp thân Phật châu biến pháp giới, chỗ nào cũng có thân Phật. Cho nên một niệm thiện ác của chúng sinh dấy lên chư Phật đều biết tất cả. Ấy là thân vô tướng, bất sinh bất diệt. Hóa thân là thân ứng hóa, tùy theo duyên độ sinh mà đức Phật thị hiện thân người, thân trời, thân nam, thân nữ, v.v… xuất hiện ở khắp nơi để giáo hóa chúng sinh. Còn báo thân của Phật Thích Ca ở cõi này cũng tùy theo tâm cảm người nhìn mà có sự nhận thức khác nhau. Với những chúng sanh bình thường thì thấy Phật là một thái tử con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Da, có 32 tướng tốt của bậc thánh nhân. Hàng nhị thừa Thanh văn, Duyên giác nhìn Phật đơn thuần như một vị tỳ kheo già chứng thánh quả A la hán. Nhưng bậc hàng Bồ tát thượng thừa thì thấy thân Ngài cao lớn ba trượng, oai đức vô cùng.

Ở nước Xá Vệ, vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc: Đây gọi là “xứ thành tựu”, sự thành tựu về nơi chốn.

Người Trung Hoa dịch Xá Vệ là Phong Đức. Tức là ở nước này có bốn đặc tính tốt đẹp. Thứ nhất, tài vật lúc nào cũng đầy dẫy. Thứ hai, phong cảnh tuyệt đẹp. Thứ ba, ở đó có nhiều bậc đa văn trí thức sinh sống. Thứ tư, là nơi có nhiều bậc giải thoát cư ngụ. Do hội đủ bốn yếu tố tốt lành ấy nên được gọi là Phong Đức.

Câu kinh “vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc” có một điển tích thật là ly kỳ. Chuyện tóm tắt thế này: Trưởng giả Cấp Cô Ðộc tên thật là Tu-đạt-đa, do ông hay bố thí, cứu giúp những người nghèo khổ cô độc nên người đời gọi là Cấp Cô Ðộc. Một hôm nhân chuyến đi hỏi vợ cho con, ông biết đến Phật. Sau khi diện kiến Phật và lắng nghe diệu pháp, ông mong muốn thỉnh Phật và đại chúng về quê hương của mình để thuyết pháp cho dân chúng nghe. Để pháp hội trang nghiêm, ông phát tâm xây dựng một tinh xá rộng rãi thích hợp cho người tu hành. Địa điểm ông chọn làm tinh xá là khu vườn của thái tử Kỳ Đà. Ông ngỏ ý mua thì thái tử đùa rằng: ông đem vàng lót đầy vườn, lót lên trên cây nữa thì ta sẽ bán cho ông. Thái tử nói đùa, nhưng trưởng giả làm thật. Khi trưởng giả trải vàng gần xong, thì đứng lưỡng lự. Thái tử bảo nếu hết vàng thì thôi cũng được, tôi không bắt phải bồi thường gì đâu. Trưởng giả bảo rằng tôi đang tính xem chở kho vàng nào là vừa đủ, vì chở đến dư phải mất công mang về. Điều đó làm cho thái tử Kỳ Đà hết sức ngạc nhiên, không hiểu Phật là người thế nào mà trưởng giả bỏ tiền xây dựng tinh xá không tiếc như vậy. Cho nên thái tử bèn hiến cho vườn cây để xây dựng tinh xá. Do nhân duyên đó, kinh văn ghi lại công đức hiến cúng của hai người là “cây của thái tử Kỳ Đà và vườn đất của trưởng giả Cấp Cô Độc”. Đây chính là sự thành tựu về nơi chốn.

Cùng với 1.250 đại Tỳ kheo vân tập đông đủ: Đây là sự thành tựu về hội chúng (chúng thành tựu).

Con số 1.250 tỳ kheo thường bên cạnh đức Phật được giải thích như sau: Pháp hội đầu tiên tại vườn Lộc Uyển, đức Phật độ cho 5 anh em Kiều Trần Như. Sau đó tiếp độ 3 anh em ngài Ca Diếp và 1000 đồ đệ của ngài. Người anh cả là Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp có 500 đồ đệ, Ca Da Ca Diếp có 250 đồ đệ và Na Đề Ca Diếp có 250 đồ đệ. Các vị này thuộc dòng Bà la môn, họ tu theo đạo thờ thần lửa. Họ có được chút ít thần thông, nhưng khi gặp Phật, thấy đức Phật nhiếp phục con rồng lửa, nhân đó họ quy y theo Phật. Hơn 1000 vị nhất loạt quy y theo Phật, tin này làm chấn động xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. Rồi ít lâu sau, đức Phật lại tiếp độ ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cùng với 200 đồ đệ nữa. Sau đó một thời gian thì đức Phật độ cho nhóm Da Xá có 50 người. Như thế tổng cộng gồm có 1.255 vị, nhưng kinh văn nói gọn là 1.250 tỳ kheo.

Tỳ kheo nghĩa là gì? Tỳ kheo có 3 nghĩa: bố ma, phá ác và khất sỹ. Bố ma tức là làm cho nội ma phiền não, ngoại ma sáu cõi khiếp sợ. Phá ác tức là hạnh nguyện của người tu phá trừ điều ác, đem lại lợi lạc cho chúng sinh. Còn khất sỹ tức là ăn xin. Ăn xin những gì? Trên thì cầu xin giới pháp của Phật để nuôi lớn pháp thân huệ mạng, dưới thì giáo hóa chúng sinh bỏ tà theo chánh. Vị tỳ kheo sống đời lục hòa (Thân hòa đồng ở, miệng hòa không tranh, ý hòa đồng vui, kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, lợi hòa đồng chia), là người dứt trừ phiền não, phá trừ ác nghiệp nên các bậc quốc vương đại thần sùng bái.

Trên đây tôi đã giải thích câu kinh đầu tiên có đầy đủ sáu điều thành tựu xong, bây giờ chúng ta tìm hiểu câu kinh tiếp theo.

Thầy Thích Huyền Châu, ảnh HN

Kinh văn:

Giai thị đại A la hán, chúng sở tri thức: Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma ha Mục Kiền Liên, Ma ha Ca Diếp, Ma ha Ca Chiên Diên, Ma ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Dà, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa, Ca Lưu Đà đi, Ma ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà, như thị đẳng chư đại đệ tử.

Dịch nghĩa:

Đều là bậc đại A la hán, cũng là hàng tri thức chúng tăng. Đó là Trưởng lão Xá Lợi Phất, Ma ha Mục Kiền Liên, Ma ha Ca Diếp, Ma ha Ca Chiên Diên, Ma ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Dà, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà, những vị đại đệ tử như thế.

Giảng:

Đều là bậc đại A la hán, cũng là hàng tri thức chúng Tăng.

A la hán là gì? A la hán có 3 nghĩa: ứng cúng, vô sanh, sát tặc. Vì cái nhân làm tỳ kheo, tu hạnh khất sỹ nên trở thành bậc ruộng phước xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của nhân thiên. Vì cái nhân tu bố ma nên thành tựu quả vô sanh, đoạn trừ hết sự sinh khởi của phiền não, vọng tưởng. Vì cái nhân tu phá trừ ác nghiệp, nên thành tựu công hạnh sát tặc. Qua đó, chúng ta thấy gieo nhân gì thì gặt quả ấy mà thôi.

Các vị A la hán mà kinh văn dẫn tên ở đây chính là những bậc tri thức đại diện trong đại chúng thời bấy giờ mà ai cũng nghe tên và quen biết. Những vị ấy là ai? Đó chính là 16 vị đại đệ tử của đức Phật, mỗi người đều có những công hạnh xuất chúng. Cho nên, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu một cách khái quát vài nét về cuộc đời và hành trạng của các ngài.

1- Trưởng lão Xá Lợi Phất

Trưởng lão có 3 nghĩa: niên kỳ trưởng lão, pháp tánh trưởng lão và phước đức trưởng lão. Niên kỳ trưởng lão tức là vị có nhiều tuổi hạ. Pháp tánh trưởng lão thì không kể về tuổi tác lớn hay nhỏ, vị ấy có tánh giác nhanh nhạy, có khả năng thuyết giảng kinh điển, giáo hóa chúng sinh thông đạt Phật pháp. Còn phước đức trưởng lão là bậc có nhiều phước đức, đầy đủ giới hạnh. Ở đây, khi Xá Lợi Phất mới 8 tuổi, người đời đã tôn xưng là Trưởng lão Xá Lợi Phất.

Trưởng lão Xá Lợi Phất, bậc trí tuệ đệ nhất và cũng là cánh tay phải của đức Phật. Ngài xuất thân từ một gia đình thuộc giai cấp Bà la môn cao quý trong xã hội Ấn Độ. Cha ngài tên Đề Xá, mẹ tên Lợi, chữ Phất nghĩa là con. Thế nên, Xá Lợi Phất nghĩa là con ông Đề Xá và bà Lợi. Đây là cách dùng tên cha mẹ ghép lại đặt thành tên con mình. Ngài còn nhiều biệt danh khác nữa như: Xá Lợi Tử, Ưu Ba Đề Xá, Thân Tử, Thu Tử và Châu Tử.

Khi mang thai ngài, mẹ ngài tự nhiên trở thành nhà hùng biện, hơn cả người em là luận sư Câu Hy La. Chúng ta có biết tại sao không? Đây chính là nguyên lý chiêu cảm thai nhi. Tức là khi người mẹ mang thai con, nếu đứa con nhiều phước báo thì sẽ tạo thành sự chiêu cảm, làm cho gia đình, đặc biệt là người mẹ có được những ảnh hưởng tốt. Ngược lại, trong giai đoạn này, nếu người mẹ biết giữ gìn thai giáo, tụng kinh, niệm Phật thì cũng có ảnh hưởng tốt đến người con trong bụng sau này.

Ở đây, bà Lợi mang thánh thai và có sự chiêu cảm trở thành nhà hùng biện như thế, cho nên em trai bà nói rằng: “Bình thường chị không bao giờ tranh luận hơn em, chẳng qua là do bậc thánh nào đang thọ thai trong chị, nên tạo thành sự chiêu cảm, làm cho chị có khả năng như vậy thôi”. Nói thế rồi, ông suy nghĩ: “Đứa trẻ này có thể là một bậc hùng biện sau này, ở trong bụng mẹ mà nó còn như thế, nếu sinh ra đời thì làm sao ta có thể tranh luận hơn nó được. Làm cậu mà thua cháu thì mất mặt quá!”. Thế nên, ông đã du phương học tất cả các môn luận lý mất 16 năm, học đến quên cắt móng tay, vì thế người đời đặt cho một biệt hiệu là Trường trảo Phạm Chí (ông Phạm Chí có móng tay dài).

Quả nhiên, Tôn giả Xá Lợi Phất chỉ mới lên 8 tuổi đã trở thành nhà đại hùng biện nổi tiếng đương thời. Lớn lên, ngài kết bạn thân tình với Tôn giả Mục Kiền Liên. Mỗi người có 100 đệ tử, chọn nơi thích hợp để tu hành và có lời giao hẹn: “Nếu sau này ai gặp bậc minh sư trước thì giới thiệu cho nhau để cùng tôn làm bậc thầy”.

Một hôm, Tôn giả Xá Lợi Phất trông thấy dáng đi khoan thai, thoát tục của Tôn giả Ma Ha Nam, một trong nhóm năm anh em Kiều Trần Như, ngài liền đảnh lễ, thưa hỏi về giáo nghĩa tu hành, được Tôn giả Ma Ha Nam trả lời bằng một bài kệ:

“Các pháp từ duyên sinh

Cũng từ nhân duyên diệt

Thầy tôi, đức Phật bậc đại sa môn

Thường dạy chúng tôi như vậy.”

Quả thật, các yếu tố vật chất, thiên hình vạn trạng trong thế giới đều hình thành từ nhân duyên. Khi duyên hội đủ thì hợp lại, khi không đủ duyên thì ly tan. Vô thường dời đổi sớm còn tối mất. Mạng sống con người cũng thế, một hơi thở ra mà không có hơi hít vào thì chấm hết. Người ấy chẳng mang theo được cái gì, ngoài nghiệp báo làm nền tảng cho kiếp tái sinh. Đây chính là giáo nghĩa căn bản, nếu ai quán sát tường tận sẽ giác ngộ chân lý.

Nghe qua bài kệ, Tôn giả Xá Lợi Phất giác ngộ chân lý, những chân lý mơ hồ trong tâm liền dứt sạch như áng mây bị tan hoại dưới ánh mặt trời. Chính vì thế, ngài đã xuất gia trong giáo pháp của đức Phật và cũng không quên giới thiệu cho Tôn giả Mục Kiền Liên xuất gia theo ngài.

Tôn giả Xá Lợi Phất là anh cả trong gia đình 7 anh em. Ngài có 3 em trai và 3 em gái. Sau này, 6 người em đều được ngài khuyến hóa xuất gia theo đức Phật. Điều đó làm cho người mẹ sinh lòng oán ghét. Bà oán ghét đức Phật, oán ghét cả người con cưng quý của mình.

Sau một thời gian du hóa độ sinh, gặp lúc dân chúng đói kém do mất mùa, Tôn giả Xá Lợi Phất đưa 500 trăm vị tỳ kheo về nhà mẹ mình để khất thực. Tuy giận như thế, nhưng vì tình mẫu tử thiêng liêng, nên bà cũng phát tâm dâng cúng thực phẩm. Vừa bày thức ăn bà vừa nguyền rủa. Khi để thực phẩm vào bình bát Tôn giả, bà mắng rằng:

– Ngu ơi là ngu! Nhà cao cửa lớn, ruộng vườn thẳng cánh cò bay mà không chịu ở, lại bỏ mà đi đầu đường xó chợ, ngủ bụi ngủ bờ, ăn cơm thừa canh vụn của người ta.

Tôn giả Xá Lợi Phất vẫn im lặng cùng chúng tăng thọ thực, ăn xong, trở về tinh xá. Ðại đức La Hầu La nhỏ nhất trong tăng đoàn, đem chuyện đó thuật lại cho Phật nghe. Phật nhân đó dạy rằng:

“Ðầy đủ đức hạnh không nóng giận,

Giới thanh tịnh không dục nhiễm,

Ngang thân này là cuối cùng,

Không còn thọ thân sau

Ấy gọi là Sa môn.”

Đúng vậy, ai không nóng giận khi gặp nghịch cảnh, khi bị người khác chửi rủa, người ấy tự hoàn thiện đầy đủ nhân cách của mình. Nếu biết giữ gìn giới hạnh thanh tịnh, không để tâm nhiễm ô mùi tục lụy, thì thân này là thân cuối cùng, sẽ được giải thoát và không còn tái sinh chịu khổ đau trong luân hồi nữa.

Sau 40 năm hoằng pháp, cuối đời theo truyền thống Đại đệ tử nhập diệt trước Phật, ngài bèn xin Phật được về nhà với người em kế là Tiểu Thuần Đà và đại chúng. Sau khoảng một tuần, ngài phương tiện giáo hóa dòng họ quy y Tam bảo, rồi về nhà mẹ mình. Tôn giả hỏi mẹ:

– Mẹ sinh con ra ở nơi nào trong căn nhà này?

Tuy lòng oán giận chưa dứt, nhưng bà vẫn chỉ chiếc giường ngày xưa đã sinh ra ngài. Tôn giả vào nằm ở chiếc giường ấy, rồi một lát sau thị hiện tướng đau bụng dữ dội, tiêu chảy không ngớt. Thị giả của ngài đem bô vào rồi lại đem ra. Bà mẹ đứng xa nhìn, tuy giận như thế, nhưng trước tình cảnh ấy lòng bà lo âu, thầm nghĩ: “Bộ con mình chuyến này nguy rồi”. Lo âu, nhưng bà vẫn đứng suốt đêm như vậy, nhất định không chịu vào thăm.

Trong lúc ấy Tứ Thiên vương bằng thiên nhãn nhìn thấy bậc đại trí sắp nhập diệt, bàn nhau xuống trần để viếng thăm ngài. Giữa đêm khuya, gian phòng sáng rực lên vì hào quang của các vị Thiên vương chiếu ra. Tôn giả hỏi:

– Ai thế?

– Bạch Tôn giả, chúng tôi là những vị trời Tứ thiên vương.

– Các ngài đến đây làm gì?

– Chúng tôi muốn hầu hạ Tôn giả trong cơn bệnh.

– Cảm ơn, tôi đã có thị giả. Các ngài đi đi.

Sau khi Tứ thiên vương từ biệt, đến lượt trời Ðế Thích và trời Ðại Phạm đến viếng thăm, Tôn giả đều cảm ơn bảo họ lui về. Bà cụ nhìn thấy thế, sinh tâm tò mò, bèn đến gần cửa phòng Tôn giả hỏi: 

– Này con, hãy nói cho mẹ nghe, những người đến đầu tiên là ai thế?

– Thưa mẹ, đó là Tứ Thiên vương.

Bà mẹ trố mắt:

– Ồ, ra con còn lớn hơn cả Tứ Thiên vương nữa à?

Tôn giả đáp:

– Họ cũng như những người giữ chùa. Từ ngày đức Thế tôn đản sinh, họ luôn luôn canh gác đêm ngày, gươm đeo lủng lẳng.

– Và kế tiếp họ là ai thế?

– Ðó là Ðế Thích, vua của những vị trời.

– Vậy con lại lớn hơn cả Ðế Thích nữa à?

– Ông ấy cũng như chú tiểu ôm y bát theo hầu các tỳ kheo. Khi đấng Ðạo sư lên cõi trời Ba Mươi Ba, chính Ðế Thích đã ôm y bát theo hầu Ngài trở về trần thế.

– Ồ! còn sau Ðế Thích là ai nữa vậy?

– Ðó chính là Phạm Thiên mà mẹ đang thờ ấy.

– Ui chao! Thế ra con còn hơn cả vị trời Ðại Phạm của mẹ nữa sao?

– Vâng thưa mẹ. Vào ngày đấng Ðạo sư đản sanh, chính bốn vị trời Ðại Phạm đã đưa lưới báu cõi trời đỡ lấy thánh nhi.

Khi nghe thế, bà cụ suy nghĩ: “Nếu con ta đã có oai thần như vậy, thì bậc thầy của con ta còn oai thần đến chừng nào”. Khi nghĩ thế, một niềm hoan hỷ tràn ngập thân tâm bà. Tôn giả quán thấy mẹ mình đã phát sinh tâm hỷ lạc đối với Tam bảo, và đã đến lúc nên thuyết pháp cho mẹ nghe. Ngài bèn hỏi:

– Mẹ nghĩ gì thế?

– Mẹ đang nghĩ rằng, nếu con mẹ có oai thần như vậy, thì đấng Ðạo sư của con còn oai thần tới mức nào.

Tôn giả Xá Lợi Phất nhân đó giảng về lợi ích của ba môn học giới, định, tuệ và ý nghĩa 10 tôn hiệu cao quý của một đấng xuất thế. Bà nghe xong, chứng quả Tu đà hoàn.

Sau khi từ biệt mẹ, trời đã gần sáng, Tôn giả cho tập hợp các tỳ kheo và nói:

– Này chư hiền, tôi đã sống, du hành với chư hiền suốt 40 năm. Trong thời gian ấy, nếu tôi có làm gì, nói gì không vừa ý chư hiền, xin chư hiền hãy tha thứ cho tôi.

Tất cả đồng thanh bạch:

– Thưa Tôn giả, không có một điều bất mãn nhỏ nào Tôn giả đã gây cho chúng con, những người theo Tôn giả như bóng theo hình. Nhưng bạch Tôn giả, xin Tôn giả hãy tha thứ cho chúng con về những sai phạm mà chúng con đã vấp phải.

Kế đó, Tôn giả quấn y quanh mình trùm cả mặt, nằm xuống hông bên phải. Tôn giả lần lượt nhập và xuất chín tầng lớp thiền định rồi trở lại nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Sau tứ thiền, ngài hoàn toàn nhập Niết bàn Vô dư y. Ðó là ngày rằm tháng Kattika tức vào khoảng giữa tháng 10 và 11 dương lịch.

Biết con mình đã nhập Niết bàn, bà cụ than khóc đến sáng. Bà mở kho, xuất nhiều vàng bạc để làm tang lễ. Quần chúng khắp làng đến nghe chư vị Tỳ kheo thuyết pháp và đảnh lễ kim thân Tôn giả.

Bảy ngày sau, lễ trà tỳ được cử hành. Kim thân Tôn giả đặt trên một giàn hỏa lớn bằng gỗ trầm hương. Sau khi hỏa táng, Tôn giả A Nâu Lâu Ðà rưới nước thơm dập tắt ngọn lửa, thâu lấy xá lợi về trình với Phật.

Chúng ta thường biết tới ngài với tôn hiệu bậc đệ tử Phật có trí tuệ đệ nhất, nhưng ít ai biết ngài cũng là một bậc có thần thông quảng đại. Một hôm, Tôn giả Mục Kiền Liên mời ngài đi thọ trai, nhưng trong lúc ngài đang thiền định, Tôn giả dùng thần thông kéo hết sức mà chiếc áo ngài cũng không lay động. Ngoài ra, khi nhắc đến tinh xá Kỳ Hoàn, chúng ta nên ghi nhận Tôn giả Xá Lợi Phất đã từng thi triển thần thông, nhiếp phục ngoại đạo và kiến tạo ngôi tinh xá hùng vĩ này.

Vậy do nhân duyên gì mà ngài thành tựu công đức lớn lao như thế? Đó là vì nhân hạnh đời trước, ngài học thông các pháp môn Bát nhã, trì chú Đại Bi, Lăng Nghiêm và quán chiếu Tâm kinh.

Thích Huyền Châu.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *