Hòa thượng Minh Lý họ Trần, sanh vào tháng giêng năm Bính Thân (1836), người làng Thuận Chánh, nay là Khu vực Vạn Thuận, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ Hòa thượng là Trần tự Tân, thân mẫu là Lê hiệu Hội. Thuở đồng ấu, Hòa thượng xuất gia tại chùa Thập Tháp, đầu sư với Hòa thượng Đạt Lượng – Hưng Long, được Bổn sư cho pháp danh là Ngộ Thiệu pháp hiệu Minh Lý, Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 39.
Năm Tân Mùi (1871), giáo thọ Đạt Thuyên – Nhật Chánh viên tịch, Hòa thượng Ngộ Thiệu – Minh Lý chính thức thừa kế trú trì tổ đình Thập Tháp. Từ đó Hòa thượng bắt đầu khởi công tu sửa chùa viện, xây dựng điện các Quan Âm, tạc tượng Cửu Thiên Huyền Nữ, đúc chuông, xây thành, tái tạo ao sen, dựng bảo tháp Hội Đồng thờ trận vong chiến sĩ. Đặc biệt là vào năm Bính Tý (1876), Hòa thượng tạo ra bộ tượng Thập Bát La Hán, A Nan, Ca Diếp, Hộ Pháp, Kiên Lao hiện thờ tại ngôi Chánh điện.
Ngoài ra, Hòa thượng còn là một bậc cao tăng đức độ, trang trải lòng từ cứu giúp chúng sanh. Vào khoảng những năm 1878 đến 1885, dân chúng nhiều nơi bị thiên tai lũ lụt, hạn hán lâm vào cảnh mất mùa đói kém, Hòa thượng đã nhiều lần ra công quyên góp từ những nhà trưởng giả hảo tâm, đồng thời xuất tiền bạc, lúa gạo của chùa đem ra cứu giúp dân chúng thoát khỏi cảnh cùng cực nguy khốn. Vì vậy mà Hoà thượng được vua Tự Đức sắc phong Tăng cang cùng ban thưởng kim bài, đao điệp. Hiện nay tại Tổ đường còn treo bức hoành sơn son thếp vàng đề bốn chữ 賞 賜 好 義 “Thưởng Tứ Hảo Nghĩa” của vua Tự Đức năm thứ 33 (1881) ban cho Hòa thượng. Năm Giáp Tuất (1874), Hòa thượng Ngộ Thiệu – Minh Lý nhận thấy bài kệ truyền pháp gần hết, chỉ còn hai chữ nên đã tục thêm bốn câu rồi tạo một bức hoành khắc chạm lên đó. Bức hoành nầy hiện treo tại trước Tổ đường, nội dung bài kệ truyền pháp như sau:
祖 道 戒 定 宗
方 廣 証 圓 通
行 超 明 實 濟
了 達 悟 真 空
如 日 光 常 照
普 周 利 益 同
信 香 生 福 慧
將 繼 振 慈 風
Tổ Đạo Giới Định Tôn
Phương Quảng Chứng Viên Thông
Hành Siêu Minh Thật Tế
Liễu Đạt Ngộ Chơn Không.
Như Nhật Quang Thường Chiếu
Phổ Châu Lợi Ích Đồng
Tín Hương Sanh Phước Huệ
Tương Kế Chấn Từ Phong.
Cũng trong năm Bính Tý (1876), Hòa thượng Minh Lý dựng lập một tấm bia đá dựng ngay sau hành lang Chánh điện, Cư sĩ Tòng Khê – Dương Thanh Tu soạn bài ký – minh khắc tạc vào bia đá. Sau đây là nguyên văn bài dịch của Hòa thượng Không Tín – Kế Châu như sau:
Bia minh lịch sử tổ đình Thập Tháp Di Đà
Chùa Thập Tháp thuộc tỉnh Bình Định huyện An Nhơn. Tọa lạc trên một danh sơn mang tên Long Bích, ao sen ở phía đông, tháp Chiêm ở phía tây, thành Đồ Bàn ở phía nam và suối Bàn Khê ở phía bắc.
Duy về đời trú trì họ Trần là bậc đại sư thông tuệ, Ngài có nói: Núi nầy thuộc đời vua niên hiệu Chánh Hòa thứ IV, Hòa thượng Hoán Bích người đời nhà Thanh, vừa tạo lập chùa Thập Tháp đầu tiên đến ngày nay, Y – Bát truyền thừa đã được chín đời, trong thời gian ấy công đức thật rõ ràng đáng được ghi chép. Muốn được biểu dương cùng bảng kim chương của chùa Linh Mụ để lại những gì bất hủ, nên phải ghi rõ không để cho quên mất. Do đó tôi đề cho bài bia.
Tôi nghe rằng: Bất hủ có ba điểm là lập đức, lập công và lập ngôn vậy. Nay các đời Hòa thượng công đức như vậy, không bất hủ là gì? Nay nhân bậc tuệ sư mà tôi làm bài bia có lời minh rằng:
Tạo dựng Thập Tháp
Đến nay lâu rồi
Hoán Bích qua Nam
Dưới chân khu đồi
Sáng lập đầu tiên
Công đức lâu dài.
Đạo Nguyên thừa truyền
Mở nẻo vi huyền.
Đến đời Kỳ Phương
Phật Đạo tinh tường.
Liễu Triệt thông đạt
Lẽ mầu khai phát.
Chơn tánh vẹn truyền
Rằng ngài Kiểu Nhiên.
Lửa binh ác liệt
Chẳng hủy chẳng diệt
Huệ Nhật từ bi
Có lo ngại chi.
Cất nhà đúc tượng
Hưng Long Hòa thượng
Công ấy đức ấy
Vô lượng vô biên.
Nhật Chánh kế đời
Chánh đạo sáng soi
Thanh qui nếp cũ
Pháp tọa sáng ngời.
Trước có tác giả
Sau có người thừa
Bia khắc chùa xưa
Ngàn năm không mờ.
Thập Tháp trang nghiêm cảnh nhiệm mầu
Nguy nga điện vũ giữa trời sâu
Lâu đài Tam Bảo lưu muôn thuở
Y Bát trao truyền chín lớp sau.
– Hoàng Triều Tự Đức năm thứ 29,
Long Bích sơn, Thập Tháp đường thượng trú trì, khâm ban Kim Bài, thưởng tứ Tăng Cang, Hảo Nghĩa Hòa thượng Trần Minh Lý cung tạo.
– Mùa thu năm Bính Tý (1876) nhằm ngày tốt,
Tòng Khê tiên sinh, Dương Thanh Tu Cư sĩ cẩn soạn.
– Ngày 24 tháng 8 năm Đinh Mão (1987),
Thập Tháp Kế Châu Hòa thượng cúi đầu tạm dịch.
Đến năm Kỷ Sửu (1889) nhằm giờ Dậu ngày mùng 5 tháng 11, Hòa thượng Ngộ Thiệu – Minh Lý an nhiên thị tịch tại tổ đình. Hiện tháp Hòa thượng ở phía bắc chùa, Long vị thờ tại Tổ đường ghi rằng: “Sắc Tứ Thập Tháp Di Đà Tự, Khâm Ban Kim Bài, Thưởng Tứ Hảo Nghĩa, Gia Thưởng Tăng Cang nhất đạo, Tự Lâm Tế tam thập cửu thế, húy Ngộ Thiệu tự Chí Tịnh thượng Minh hạ Lý pháp sư Hòa thượng Trần phái liên tòa”.
Hiện nay trên tấm bia bình phong tháp Hòa thượng được khắc ghi một bài ký nói lên công đức của Hòa thượng. Trong đó có bài thơ được Hòa thượng Kế Châu dịch như sau:
Tự thuở nhi đồng đã xuất gia
Dâng tròn tâm niệm trước đài hoa
Gắng công vun đắp nền Tăng Bảo
Dốc chí truyền gieo giống Phật Đà
Lòng sẵn từ bi ngời đức độ
Nước đề tên tuổi nét ân ba
Quảy cao chiếc dép về Tây Trúc
Bia tạc nghìn thu chữ chẳng nhòa.
Toàn bộ nội dung BIA THÁP HÒA THƯỢNG MINH LÝ chép đầy đủ như sau:
CHÁNH VĂN
敕 賜 十 塔 僧 綱 好 義 明 理 和 尚 之 碑
恭 惟
兜 率 降 神 梵 宮 出 世 。 標 正 道 于 中 天 布 慈 心 于 大 地 。 佛 佛 授 授 祖 祖 相 承 十 塔 建 來 九 傳 歷 至 。 法 輪 常 轉 佛 日 增 輝 可 見 天 地 久 長 而 並 對 者 也
惟 住 持 姓 陳 豁 達 之 人 也 。 歲 尚 妙 齡 心 投 佛 教 。 財 法 二 施 福 慧 雙 修 。 荷 皇 恩 厚 賞 金 牌 好 義 樂 僧 綱 之 賜 。 承 祖 德 授 傳 衣 缽 慈 心 明 和 尚 之 尊 。 重 修 佛 像 以 輝 煌 再 造 城 池 而 整 飭 。 鑄 鐘 造 鼓 鑿 井 開 田 。 創 樓 薹 供 奉 關 音 銘 碑 石 稱 楊 祖 德 。 其 心 如 此 非 謂 之 豁 達 而 何 ? 經 營 功 亦 難 明 修 造 德 無 可 誌 也
玆 以
塵 勞 脫 離 極 樂 指 歸 。 建 塔 以 標 名 立 碑 而 讚 德 。 蓋 人 亡 者 而 功 德 且 不 亡 也 。 前 立 功 後 亦 揚 功 生 有 德 死 兮 讚 德 。 形 容 雖 往 姓 字 維 新 寶 塔 碑 銘 億 萬
詩 云
空 門 漸 入 自 童 真
躬 祝 佛 前 念 念 神
勤 作 福 田 成 法 器
紹 隆 聖 種 妙 精 神
佛 家 已 具 慈 心 好
國 寵 添 題 姓 字 新
最 愛 西 衢 明 隻 履
碑 銘 功 德 億 年 春
PHIÊN ÂM:
SẮC TỨ THẬP THÁP TĂNG CANG HẢO NGHĨA
MINH LÝ HÒA THƯỢNG CHI BI
Cung duy:
Đâu Suất giáng thần, Phạm Cung xuất thế
Tiêu chánh dạo vu trung thiên, bố từ vân vu đại địa.
Phật Phật thọ thọ, Tổ Tổ tương thừa
Thập Tháp kiến lai, cửu truyền lịch chí
Pháp luân thường chuyển, Phật nhật tăng huy
Khả kiến thiên địa cửu truyền nhi tinh đối giả dã.
Duy trú trì tánh Trần khoát đạt chi nhân dã
Tuế thượng diệu linh, tâm đầu Phật giáo
Tài pháp nhị thí, Phước Huệ song tu
Hà hoàng ân hậu thưởng kim bài, Hảo nghĩa lạc Tăng cang chi tứ.
Thừa Tổ đức thọ truyền Y Bát, từ tâm minh Hòa thượng chi tôn.
Trùng tu Phật tượng dĩ huy hoàng,
Tái tạo thành trì nhi chỉnh sức,
Chú chung tạo cổ, tạc tỉnh khai điền,
Sáng lâu đài cung phụng Quan Âm,
Minh bi thạch xưng dương Tổ Đức,
Kỳ tâm như thử, phi vị chi khoát đạt nhi hà?
Kinh doanh công diệc nan minh,
Tu tạo đức vô khả chí dã.
Tư dĩ:
Trần lao thoát ly, Gực Lạc chỉ qui
Kiến tháp dĩ tiêu danh, lập bi nhi tán đức
Cái nhân vong giả nhi công đức thả bất vong dã.
Tiền lập công hậu diệc dương công
Sanh hữu đức tử hề tán đức.
Hình dung tuy vãng, tánh tự duy tân
Bảo tháp bi minh ức vạn.
Thi vân:
Không môn tiệm nhập tự đồng chân
Cung chúc Phật tiền niệm niệm thân
Cần tác phước điền thành pháp khí
Thiệu long thánh chủng diệu tinh thần.
Phật gia dĩ cụ từ tâm hảo
Quốc sủng thiêm đề tánh tự tân
Tối ái tây cù minh chích lý
Bi minh công đức ức niên xuân.
DỊCH NGHĨA:
(CỦA HÒA THƯỢNG KẾ CHÂU)
BIA THÁP TỔ TĂNG CANG HẢO NGHĨA
MINH LÝ HÒA THƯỢNG
Kính duy:
Cõi trời Đâu Suất giáng trần, xứ Phạm Cung vua xuất thế.
Nêu Chánh đạo ở chốn trung thiên, trải Từ tâm ở cõi đại địa.
Phật Phật trao thọ, Tổ Tổ truyền thừa
Thập Tháp dựng lên đến nay chín lớp
Bánh xe Pháp thường xoay, mặt trời Phật thêm sáng
Có thể chứng sự lâu dài đối cùng trời đất vậy.
Duy Ngài trú trì họ Trần là con người hoát đạt,
Tuổi còn thơ ấu tâm đã đầu thiền,
Thí pháp thí tài, tu phước tu huệ.
Đội ơn vua hậu thưởng bài vàng, vui trí Tăng cang Hảo nghĩa
Thừa đức Tổ truyền trao Y Bát, sáng ngời Hòa thượng từ tôn
Trùng an Phật tượng chói chan, tái tạo thành ao đẹp đẽ
Đúc chuông tạo trống, đào giếng mở đường
Xây lầu đài cung phụng Quan Âm,
Khắc bia đá ngợi ca Tổ đức.
Tâm Ngài như thế, không phải con người hoát đạt là gì?
Công kinh doanh mà khó rõ, đức tu tạo không dễ ghi chép.
Nay:
Trần lao lìa bỏ, Cực Lạc thẳng về
Dựng tháp để nêu danh
Lập bia mà ngợi đức
Bởi con người dẫu mất
Mà công đức vẫn còn vậy.
Trước lập công sau cũng dương công
Sống có đức chết thì kiêm đức
Hình dung qua khuất, tên tuổi mới tinh.
Bảo tháp bia ghi muôn ức.
Thi rằng:
Tự thuở nhi đồng đã xuất gia
Dâng tròn tâm niệm trước đài hoa
Gắng công vun đắp nền Tăng Bảo
Dốc chí truyền gieo giống Phật Đà.
Lòng sẵn từ bi ngời đức độ
Nước đề tên tuổi nét ân ba
Quảy cao chiếc dép về Tây Trúc
Bia tạc nghìn thu chữ chẳng nhòa.
(Trích: Chùa Thập Tháp Di Đà và Tổ sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch).