“Nếu như trong tim có trăng sáng, hà cớ phải sợ ảo ảnh của thế gian”. (Bạch Lạc Mai).
Có lần tác giả của những bài thơ nổi tiếng của Nhật Bản Haruki Murakami đã nhận định rằng: “Chúng ta đều là những con người không hoàn hảo, sống trong một thế giới không hoàn hảo.” Chính vì vậy, trong quá trình hướng đến mục đích tối thượng, hướng đến hạnh phúc đích thực, mỗi một con người đều cần thiết chuẩn bị cho mình một hành trang tư lương thật vững chắc. Chúng ta những xuất sĩ đi ngược dòng đời để trở về bổn tánh tự chơn kia thì ắt hẳn càng phải giữ cho mình một tâm hồn lắng đọng nghĩa là một trái tim không bị đồng nhất bởi những biến động của hoàn cảnh và xã hội. Giữa muôn vàng đúng và sai, giữa phải và trái, giữa ngày và đêm, giữa giàu và nghèo… thì ranh giới phân biệt vô cùng mỏng manh, bởi lẽ cả hai đều dựa trên mối quan hệ tương tác lẫn nhau để duy trì trạng thái của chính mình, tức là cái này sinh thì cái kia cũng sinh cái này diệt thì cái kia cũng diệt cho nên chúng không thể tách rời nhau. Do đó việc phân biệt, lựa chọn của mỗi người đều trở nên khó khăn và đầy vất vả, đôi khi khiến chúng ta trở thành kẻ thẩm phán cầm lấy trong tay quyền quyết định mọi thứ và tất nhiên không tránh được việc quên mất bản thân mình là ai trong môi trường nào, đang làm gì, với hoàn cảnh nào…?

Thật vậy, có khi nào bạn thử bật lên một kênh khác để xem lại, một kênh nào đó có chứa hình ảnh của chính mình ngày xưa, thuở ban sơ chúng ta còn là một hình hài trong sáng, hồn nhiên và vô tư, chưa từng phải bận rộn với bao bộn bề lo toan, hãy thử mời con người ấy trở về như cách mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã nói rằng: “Có nhiều khi từ vườn khuya bước về bàn chân ai bước nhẹ, tựa hồn những năm xưa…” Điều này được phác hoạ rõ và chân thực nhất là từ trước và sau khi đại dịch Covid 19 xảy ra. Trước đó chúng ta đã từng là một con người luôn sản sinh ra những năng lượng tích cực dẫu là ở hoàn cảnh nào, là ở nơi đâu, cùng với ai, dẫu đó có là nghịch cảnh khó khăn, khốc liệt thì chính chúng ta cũng đã trở thành người anh hùng bất khuất, chiến thắng mọi quân thù ở ngoại cảnh lẫn cả nội tâm. Ấy thế lại khác hẳn đi khi đứng trước cánh cửa của đại dịch, những anh hùng bất khuất ấy nay chẳng còn nữa! Chỉ để lại một thân xác đầy mệt mỏi, ủ rũ với nhiều vết thương trong lòng mà không thể buông xuống được. Dẫu rằng cố gắng tỏ vẻ ra là bản thân này ở mức tích cực, duy trì trong trạng thái bình tĩnh nhất, thì liệu có đạt được kết quả tốt nhất như trước kia hay là không? Thật khó để đi tiếp phải không? Vậy sao ta không dừng lại, không ngồi xuống nghỉ ngơi, không lắng dịu lại một chút giúp mảnh đất tâm ta được tưới tẩm cơn mưa thanh lương từ hơi thở chánh niệm. Cứ để hơi thở vào, hơi thở ra một cách tự nhiên, lắng đọng ba nghiệp thân, khẩu, ý và giữ đừng để dấy lên các bất thiện nghiệp, điều đó giúp đưa chúng ta về sự tỉnh thức chân thật nhất mà ta từng đã có. Hình ảnh này thật sự đã từng được Đức Thế Tôn nhắc đến trong phẩm “Hoá thành dụ” nằm trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Vẫn là bóng dáng của đoàn người đi đến kho báu nơi cất giữ muôn vàn trân báu quý giá của thế gian, vì quá mỏi mệt nên đã từ bỏ chặng đường đi tiếp, dẫu rằng kho báu ấy gần ngay đó nhưng vì thân đã quá mệt rồi nên đành thoái lui. Vì lòng xót thương nên vị Pháp sư đã dùng phép thuật tài tình biến hoá ra thành quách giúp đoàn người nghỉ ngơi, sau đó khuyến khích họ đi đến nơi cất giữ kho báu. Giây phút dừng lại nghỉ ngơi thật vi diệu, không những xua tan sự mệt nhọc nơi thân lại còn mất đi những ý nghĩ tầm thường, giúp hồi phục và thúc đẩy con người đi đến phía trước.
Hơi thở chánh niệm quả thật là vi diệu, nó ẩn chứa bên trong một sức mạnh nội tại, khi những muộn phiền dấy khởi, khi bị trói buộc bởi u sầu, phiền não, tất cả đều được chuyển hoá thành năng lượng tích cực. Bằng sự tĩnh lặng mà ta có thể kết nối và tạo cho mình một khả năng lắng nghe sâu sắc với thực tại. Có một hôm Đức Phật mời ngài Ananda thỉnh lấy một tiếng chuông, sau khi tiếng chuông kết thúc, Đức Phật hỏi ngài có nghe không, thì ngài Ananda đáp: Bạch đức Thế Tôn, con có nghe ạ! Sau một hồi lâu, Đức Phật lại hỏi ngài Ananda: Bây giờ thì thầy có nghe không? Thì Ananda đáp: Bạch đức Thế Tôn, con không nghe nữa ạ! Đức Phật nói: Tại sao thầy không nghe? Ananda thưa: Bạch đức Thế Tôn không có tiếng chuông, thì con không nghe. Đức Phật nói: Tiếng chuông là một hiện tượng đến rồi đi, mọi sự vật sự việc trong đời sống đến rồi đi, thầy không nhất thiết phải chạy theo sự đến và đi đó để chỉ biết rằng thầy cũng chỉ là gì đó để liên tục đến và đi. Khi âm thanh xuất hiện thì thầy nghe có âm thanh xuất hiện, âm thanh ở cường độ cao, tốt nhất thì thầy cũng biết và âm thanh kết thúc thầy cũng biết, âm thanh không còn nữa, âm thanh của tiếng chuông ấy, thầy cũng biết. Thầy đang nghe âm thanh không có tiếng chuông thậm chí là không có bất cứ tiếng động nào ta cũng nghe, nghe tức là biết và thiền chánh niệm chính là sự quay về tính lắng nghe có sẵn trong mỗi người, giữa mọi mối quan hệ đều cần thiết có sự lắng nghe. Hạt giống tỉnh thức và nhận biết đã có sẵn trong chúng ta, nếu như không có thì đến bao giờ ta mới nảy mầm hạt giống ấy. Trong khi đó, chỉ cần ngồi xuống thở vào thở ra và không phải làm gì cả bởi chính hơi thở bản thân của nó là tự nhiên, nó vận động theo tiễn trình tự nhiên của nó; tiến thêm một bước nữa là quan sát và chú ý mọi thứ để tách mình ra khỏi con người u mê, mang đầy bóng tối trước kia.
Chúng ta thường làm hai, ba hoặc bốn, năm việc trong cùng lúc, nhưng phải vất vã, phải căng thẳng trong hối hả, với hơi thở chánh niệm thì việc quan sát một, hai, ba hay bốn, năm đối tượng lại trở nên đơn giản. Chúng ta có thể nghe được âm thanh xa, âm thanh gần, nghe được tiếng nói của ngày hôm nay cũng như những tiếng nói đã vang bóng một thời. Việc mang sự quan sát từ thiền tập đến đời sống hằng ngày quả thực vô cùng hữu ích, bởi chính có sự nhận diện đơn thuần này cho ta biết việc thấy chỉ đơn giản là thấy, nghe chỉ đơn thuần là nghe, chẳng có phán xét lại cũng chẳng có sự để ý. Có thể trước đây tiếng chó sủa, tiếng máy móc làm việc, tiếng ồn ào, tiếng nói chuyện của hàng xóm… khiến ta trở nên cáu kỉnh, khó chịu thì giờ đây bằng khả năng nhận diện đơn thuần, bằng khả năng đón nhận ta bao dung tất cả lại chẳng có sự chi phối nào.
Tóm lại, việc duy trì khả năng này để thực tập một cách thường xuyên thì càng ngày càng trở nên thuần thục việc lắng nghe chính bản thân để tỏ rõ mọi việc từ trong quá khứ đến hiện tại và tương lai, lướt qua mọi ngọn sóng đầu gió, đi qua mọi biến cố, mọi tổn thương đều hóa thành chất liệu vẽ nên một con người có đầy đủ phẩm chất yêu thương từ bi. Trong truyền thống Phật giáo Đại thừa có đức Avalokiteśvara, Ngài có khả năng lắng nghe bằng tất cả giác quan của bản thân. Ngài luôn mang tính lắng nghe ấy để tìm hiểu, để giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn cùng với tâm nguyện tha thiết, mà không phân biệt không kì thị. Tính lắng nghe và thấu hiểu sẽ mang ta đến chân trời mới cao rộng hơn, hỗ trợ ta từng bước từng bước đến gần với những giá trị cao quý.
Dõi theo hơi thở đi về,
Cõi tâm mầu nhiệm vạn bề tịch nhiên.
Dõi nhìn thấy rõ uyên nguyên,
Giữa đời chơn vọng có phiền chi mô!
Từ xưa cho đến bây giờ,
Cõi thiền là cõi sống thơ không lời,
Vọng, chơn không để cho người,
Vọng chơn chuyển hóa thành đời vô biên.
(HT. Thích Thái Hòa)