VÀI NÉT VỀ PHẬT GIÁO ĐÀNG TRONG
Đạo Phật từ khi du nhập vào Việt Nam cho đến khoảng thế kỷ 17 thì có đến bốn phái thiền chính: phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, phái Vô Ngôn Thông, phái Thảo Đường và phái Trúc Lâm Yên Tử. Đặc biệt là vào thời đại Lý – Trần, phái Thiền Thảo Đường và Trúc Lâm Yên Tử được thành lập tại Việt Nam. Vào thời đại nhà Trần, phái thiền Trúc Lâm Yên Tử được sáng lập bởi vua Trần Nhân Tông và sau đó phát huy rực rỡ, ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt đời sống văn hóa xã hội. Vì vậy Phật giáo trong giai đoạn nầy được đánh giá là “thời vàng son” của Phật giáo Việt Nam. Thời đại hưng thịnh đó trải qua hơn một thế kỷ, cho đến cuối triều đại nhà Trần thì lại trở nên suy yếu, không còn giữ được vai trò lãnh đạo tinh thần trong tầng lớp trí thức cũng như trong guồng máy tổ chức chính quyền. Uy tín của Phật giáo sa sút ngày càng trầm trọng và kéo dài cho đến suốt triều đại nhà Lê. Căn cứ trên nhiều tài liệu và sách vở ghi chép, chúng ta thấy rằng sự suy thoái của đạo Phật lúc bấy giờ có những nguyên nhân căn bản sau đây:
Trong giai đoạn đầu nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, các tăng sĩ được hưởng nhiều đặc ân của triều đình nên dần dà có thói quen ỷ lại vào sự cung kính, ủng hộ của các vua quan cũng như những nhà trưởng giả cư sĩ quyền quý đương thời. Vì vậy, chẳng bao lâu họ đánh mất đi nền tảng độc lập và tri túc của đời sống người xuất gia. Lạm dụng sự ưu đãi này nên số lượng tu sĩ ngày càng trở nên đông đảo mà ngược lại sự tổ chức, quản lý Tăng đoàn, đào tạo về căn bản giáo lý cũng như phẩm hạnh không được chặt chẽ chu đáo, do đó dẫn đến tình trạng hỗn tạp và yếu kém về phẩm hạnh căn bản của đoàn thể Tăng già. Trong Sử Mục Cương Yếu quyển 9 trang 45b, chép rằng: “Lúc bấy giờ liên tiếp nhiều năm mất mùa đói kém, dân chúng phần nhiều đi tu làm sư và đi ở đầy tớ”. Như vậy là hàng ngũ Tăng sĩ đã đánh mất hình ảnh cao cả tốt đẹp trong giới trí thức Phật tử.
Trong khoảng mười năm đô hộ, nhà Minh triệt để thi hành chính sách đồng hóa người dân ta, ra sức triệt tiêu những thành tựu văn hóa và chính trị độc lập mà Phật giáo Việt Nam đã gầy dựng trong thời kỳ vàng son. Họ cho người tịch thu tất cả những tác phẩm văn học Phật giáo vô cùng quý giá được sáng tác trong thời đại Lý – Trần mang về nước họ và áp đặt chính sách cai trị nước ta theo mẫu mực của Trung Hoa.
Hơn nữa, sau khi đánh đuổi giặc Minh giành được độc lập, các vua Lê chỉ chú trọng đến các lễ nghi, học thuyết Khổng tử, trọng dụng các Nho thần để thực hiện chính sách cai trị thực dụng. Vì vậy, nền văn hóa dân tộc ngày càng biến thái, mất đi tính bao dung, tự chủ và trở thành một nền văn hóa nô dịch, tiêu cực. Các Nho gia lúc bấy giờ mặc sức biếm nhọ, bài xích Phật giáo. Họ cho rằng đạo Phật là một thứ tà đạo, mê tín dị đoan, ru ngủ quần chúng, không đem lại lợi ích gì cho đất nước và dân tộc.
Mãi cho đến cuối triều đại nhà Lê, tình hình xã hội vô cùng đen tối, nhà Mạc nổi lên chống lại nhà Lê, hai bên đánh nhau triền miên, dân chúng sống trong cảnh lầm than tương tàn. Hàng ngũ Nho sĩ lúc bấy giờ phần nhiều quay trở lại xu thế mặc nhiên theo thời cuộc, lòng người chán nản khắp chốn kêu than. Trong bối cảnh tinh thần như vậy, mọi người lại bắt đầu hướng niềm tin trở về Phật giáo, xem như là chỗ dựa tinh thần của mình. Đến thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, Đàng Ngoài cũng như Đàng Trong, các Chúa Trịnh – Nguyễn đều hâm mộ đạo Phật. Sự quan tâm của các Chúa là một yếu tố khiến cho Phật giáo lần hồi khởi sắc trở lại. Ở đây chúng ta cũng cần nên bổ sung thêm rằng đạo Phật đã gắn bó sâu sắc với tâm hồn dân Việt từ rất lâu đời. Qua nền văn học dân gian cũng như trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, v.v… hầu hết đều biểu hiện tư tưởng và sắc thái của Phật giáo. Trên đây nói sự suy thoái của Phật giáo là chỉ nói trên bộ phận tổ chức lãnh đạo hoặc giả trên bình diện hình thức mà thôi, chứ thật ra xét trên bộ phận đại chúng thì Phật giáo vẫn hiện diện với mọi sinh hoạt quần chúng. Đó chính là tiềm lực đặc biệt thích ứng của Phật giáo, nó luôn luôn ẩn tàng trong nếp sống tư tưởng văn hóa của dân tộc mà khi nào hội đủ mọi yếu tố cần thiết thì tiềm lực ấy lại bộc phát trở lại một cách mạnh mẽ nhanh chóng.
Sự phục hưng của Phật giáo trong thế kỷ 17 một phần là nhờ sự quan tâm ủng hộ của các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Phái thiền Trúc Lâm Yên Tử sau một thời gian dài vắng bóng, lần hồi được khôi phục trở lại với các thiền sư nổi tiếng. Một yếu tố khác quan trọng nữa là vào khoảng giữa thế kỷ 17, một số khá đông các Cao Tăng từ Trung Hoa vượt biển đến xứ Đàng Trong để truyền bá phái thiền Lâm Tế như: Thiền sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch, Minh Hoằng – Tử Dung, Minh Hải – Pháp Bảo, v.v… Đồng thời, phái thiền Tào Động cũng được truyền sang với các Thiền sư như Thạch Liêm và Hưng Liên.
Ngay từ khi mới vào cát cứ ở Đàng Trong (1558), Doãn Quốc Công – Nguyễn Hoàng đã để ý đến việc xây cất chùa viện, trọng đãi thiền Tăng. Ông lấy đạo Phật làm chỗ dựa tinh thần trong sự nghiệp nam tiến và lập Quốc. Các chúa Nguyễn sau nầy cũng nối tiếp chí hướng của ông, nhiệt tâm ủng hộ Phật Pháp, làm cho Phật giáo Đàng Trong mỗi ngày một thêm hưng thịnh. Năm Tân Sửu (1601), Chúa Tiên – Nguyễn Hoàng cho xây dựng chùa Linh Mụ (nay gọi là chùa Thiên Mụ) trên đồi Hà Khê thuộc huyện Hương Trà. Chùa nầy xưa nay nổi tiếng là một danh lam thắng cảnh với ngôi tháp bảy tầng ngày đêm đứng trầm mặc bên dòng sông Hương thơ mộng. Sau khi chùa được xây dựng xong, mùa Vu Lan năm 1602, chúa Tiên đến đó tổ chức Trai Đàn làm lễ bố thí chẩn bần cho dân chúng. Nhân đó, ông cho trùng tu chùa Sùng Hóa tại làng Triêm Ân huyện Phú Vang. Đến năm 1607, Chúa Tiên lại cho lập chùa Bảo Châu ở Trà Kiệu – Quảng Nam và Chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch – Quảng Bình, đồng thời lập thêm chùa Long Hưng ở cạnh mé đông cửa Trấn. Đến khi chúa Nguyễn Phước Nguyên lên nối nghiệp (1613-1635), ông lại tích cực hộ trì Phật Pháp, vì thế mà người đời tôn gọi ông là Chúa Sãi (Chúa Phật). Đến thời chúa Hiền – Nguyễn Phước Tần (1648-1687), Phật Giáo lại càng sôi động hẳn lên bởi các thiền sư từ Trung Hoa sang Đàng Trong truyền bá Phật Pháp. Các chúa Nguyễn sau đó như Nguyễn Phước Trăn, Nguyễn Phước Chu, v.v… cho đến Nguyễn Phước Khoát đều sùng mộ đạo Phật, nhiệt thành hỗ trợ các thiền sư tuyên dương Phật pháp và kiến thiết tự viện. Do đó mà các thiền sư đã mở Đàn truyền trao Giới Pháp, sáng lập chùa viện và để lại cho đến ngày nay nhiều ngôi Tổ đình nổi tiếng. Theo sự ghi nhận của các nhà nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam, cho rằng trong thế kỷ 17 có các thiền sư Trung Hoa sang Đàng Trong hành đạo và khai sáng những ngôi Tổ đình nổi tiếng như:
PHÁI THIỀN LÂM TẾ GỒM CÓ:
Thiền sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch khai sáng chùa Thập Tháp Di Đà tại đất Qui Ninh (Bình Định), sau đó ra Thuận Hóa lập chùa Hà Trung, chùa Quốc Ân và tháp Phổ Đồng.
Thiền sư Minh Hoằng – Tử Dung khai sáng chùa Ấn Tôn tại Thừa Thiên (nay là chùa Từ Đàm).
Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo khai sáng chùa Chúc Thánh tại Hội An-Quảng Nam.
Thiền sư Từ Lâm khai sáng chùa Từ Lâm tại Thuận Hóa.
Thiền sư Pháp Hóa khai sáng chùa Thiên Ấn tại Quảng Ngãi.
Thiền sư Tế Viên khai sáng chùa Hội Tôn tại Phú Yên.
Thiền sư Giác Phong khai sáng chùa Thiên Thọ tại Thuận Hóa (nay là chùa Báo Quốc).
PHÁI THIỀN TÀO ĐỘNG GỒM CÓ:
Thiền sư Thạch Liêm hành đạo tại chùa Thiên Mụ và khai sáng chùa Thiền Lâm ở Thuận Hóa.
Thiền sư Hưng Liên hành đạo tại chùa Tam Thai ở Quảng Nam.
Trên đây là các Thiền sư Trung Hoa đã hoằng hóa tại xứ Đàng Trong. Ngoài ra, còn có nhiều vị khác, hoặc là đệ tử hoặc là pháp tôn của thiền sư Nguyên Thiều, đã đóng góp nhiều công đức trong sự nghiệp truyền bá Phật pháp tại vùng đất mới phía nam nầy.
Còn riêng phái thiền TRÚC LÂM YÊN TỬ, sau khi nhà Trần sụp đổ năm 1400, có thể hầu hết các thiền sư Trúc Lâm mai danh ẩn tích ở những vùng rừng sâu núi thẳm. Vì vậy mà ta thấy rằng sau Tam Tổ Trúc Lâm là Trúc Lâm Đầu Đà, Pháp Loa và Huyền Quang, chúng ta không thấy ghi chép gì về sự truyền thừa của phái thiền nầy. Mãi cho đến cuối thế kỷ 16 đến thế kỷ 17, chúng ta mới thấy xuất hiện một số thiền sư đứng ra khôi phục và xiển dương phái thiền Trúc Lâm, ở Đàng Ngoài có các thiền sư hậu duệ của thiền sư Minh Châu – Hương Hải như: thiền sư Chân Nguyên, thiền sư Như Hiện, Như Trừng, Như Sơn, Như Trí, v.v… Ở Đàng Trong có thiền sư Minh Châu – Hương Hải rất nổi tiếng lúc bấy giờ. Nhưng về sau vì có sự hiểu lầm của chúa Nguyễn Phước Tần mà năm 1682, thiền sư Hương Hải cùng năm mươi người đệ tử bỏ ra Đàng Ngoài để hành đạo. Còn lại ở Đàng Trong, sau khi sáng lập chùa Thập Tháp Di Đà, thiền sư Nguyên Thiều cùng một số đệ tử và pháp tôn của ngài tiếp tục sự nghiệp truyền bá giáo lý xiển dương Phật Pháp, thể hiện đức tính từ bi, trí huệ đem lại cho dân chúng một đời sống thái bình an lạc. Cho đến ngày nay, hầu hết các ngôi chùa Phật giáo từ miền trung trải dài đến khắp đồng bằng châu thổ sông Cửu long, đều phát xuất từ phái thiền Lâm Tế của Tổ sư Nguyên Thiều truyền bá.

PHONG THỦY VÀ ĐỊA CUỘC
Chùa Thập Tháp Di Đà tọa lạc tại làng Thuận Chánh, nay thuộc khu vực Vạn Thuận, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Trên đường quốc lộ 1 ngang qua tỉnh Bình Định, nằm ngay ranh giới giữa hai thị trấn Đập Đá và Gò Găng là khu vực Vạn Thuận, tại đây ta gặp một cây cầu nhỏ tên là cầu Vạn Thuận tục gọi Cầu Chùa. Từ cầu nầy, rẽ theo con đường đất rộng lớn thẳng lên hướng tây khoảng 300 mét là đến chùa Thập Tháp. Con đường đất to lớn vừa dẫn đến chùa chính là một đoạn thành phía bắc của thành Đồ Bàn (Vijaya) còn sót lại đến ngày nay.
Thành Đồ Bàn xưa kia là một trong những đế đô nổi tiếng của vương quốc Champa (Chiêm Thành). Để hiểu thêm về thành nầy, trong Đồ Bàn Thành Ký của Nguyễn Văn Hiển diễn tả rằng:
“Chiêm Thành lập quốc vào đời nhà Hán, mất nước từ đời chúa Nguyễn, quốc hiệu bốn lần thay đổi. Nhưng Đồ Bàn là quốc đô của nước Chiêm Thành, xưa gọi là nước Đồ Bàn. Thành Đồ Bàn được vua Chiêm là Ngô Nhật Hoan xây dựng vào thế kỷ thứ 10, nhằm đời nhà Tống đương thời nước ta là Tiền Lê. Thành Đồ Bàn chu vi hơn mười dặm, tường thành xây bằng gạch, bốn mặt có bốn cửa thành kiến trúc kiên cố. Bên trong thành có dựng tháp làm bảo chướng gọi là tháp Cánh Tiên. Bên ngoài, có dãy đồi Kim Sơn che chắn cửa tây, núi Long Cốt án ngự cửa nam, gò Thập Tháp yểm thủ cửa bắc. Xa hơn nữa, khắp bốn mặt thành có núi non trùng điệp, sông ngòi quanh co, biển Đông triều xanh bát ngát, khí thật oai hùng, thế thật hiểm trở. Thành Đồ Bàn cũng như những thành khác của nước Chiêm, nhưng tên tuổi được nổi bật hơn cả, vì thành nầy ở trung tâm Chiêm quốc và cộng vào những nguyên nhân: thời đại – nhân vật – địa thế.”
Chùa Thập Tháp tựa lưng vào khu đồi Long Bích nhìn về hướng đông, nằm áp sát cạnh phía bắc ngoại thành Đồ Bàn. Long Bích là một ngọn đồi thấp nằm trong khu vực gò Thập Tháp. Dòng suối Bàn Khê từ hướng tây đổ về, chảy dọc theo thành Đồ Bàn, đến chân gò Thập Tháp thì dòng nước lách qua hướng bắc, chảy bọc lại trước mặt chùa bao lấy khu gò, rồi chảy dọc theo thành Đồ Bàn cắt ngang quốc lộ I bởi cầu Chùa (cầu Vạn Thuận) và xuôi thẳng về hướng đông. Dòng suối này là một nhánh của sông La Vĩ, được tách ra từ dòng sông Côn – một trong những sông lớn của miền Trung, quanh năm nước chảy trong xanh, uốn lượn quanh co theo thế đất chập chùng. Với phong thủy hữu tình như vậy nên Hòa thượng Kế Châu có bốn câu thơ vịnh cảnh như sau:
龍 壁 山 秋 月
蟠 溪 水 春 天
萬 古 風 光 在
何 勞 覓 那 邊
(Long Bích sơn thu nguyệt
Bàn Khê thủy xuân thiên
Vạn cổ phong quang tại
Hà lao mích ná biên.)
Bài thơ được Hòa thượng Viên Đạt dịch rằng:
Trăng thu Long Bích sáng ngời
Bàn Khê nước chảy xuân trời vô biên
Phong quang muôn thuở y nguyên
Tìm chi bên ấy đảo điên nhọc lòng.
Đứng trên khu đồi Long Bích, yểm hậu chùa Thập Tháp, nhìn sang hướng nam, ta thấy một tòa tháp cao hùng tráng nằm ngay trung tâm thành Đồ Bàn của Chiêm Thành để lại, gọi đó là tháp Cánh Tiên hay tháp Đồng (Tuor de Cuivre).
Nhìn qua hướng đông có ngọn tháp Phốc Lốc hay còn gọi là tháp Vàng (Tuor d’Or). Dưới chân tháp còn có một ngôi chùa làng gọi là chùa Phước Lộc, nằm tựa lưng lên sườn đồi tháp, cảnh trí rất nên thơ hữu tình.
Nhìn về hướng đông nam, xa xa có cụm tháp Bánh Ít còn gọi là tháp Bạc (Tuor d’Argant). Hiện nay có một Tu viện Phật học nằm ngay dưới chân tháp Bánh Ít, gọi là Tu viện Nguyên Thiều được sáng lập vào khoảng những năm trước 1960, do Hòa thượng Huyền Quang đứng ra chủ sáng.
Nhìn thẳng hướng đông cách một khoảng đồng trống, có một ngọn núi Thiên Bút đỉnh cao, đứng uy nghi cô độc giữa trời như thách đố cùng phong ba tuế nguyệt. Dân địa phương quen gọi núi nầy là núi Mò-O, trong tác phẩm “Nước Non Bình Định”, tác giả Quách Tấn mô tả núi Mò-O như sau:
“Núi nầy hình thù cổ quái. Trên đỉnh có một lỗ hủng ngoài tròn trong vuông, rộng chừng hai thước sâu hơn một thước. Dân địa phương gọi là giếng Tiên, do đó núi có tên là Tiên Tỉnh Sơn. Trên miệng giếng còn có hai tảng đá hình tam giác đứng song song, xa trông như một cửa miệng hả toạt hướng lên trời xanh, vì vậy mà người Tây gọi núi nầy là Mạ Thiên Sơn (ngửa miệng mắng trời). Đứng tại chùa Thập Tháp nhìn xuống, ta thấy núi Mò-O giống như một lá buồm, chùa lấy núi nầy làm tiền án. Trong địa cuộc, núi nầy chịu triều phục Chùa nên trông dáng núi có vẻ hiền lành, lễ độ. Nhưng từ Phù Cát nhìn vào, núi trông rất ngạo nghễ hung tợn, lưng lởm chởm đá dăm như lưng con nhím, miệng mồm há hốc như gấu heo vồ mồi. Từ Đập Đá nhìn ra thì núi giống như một con hổ nằm ngó mông, không hiền cũng không dữ. Từ hướng đông nhìn ngược trở lên thì trông ngọn núi giống như một pho tượng Phật ngồi uy nghi đồ sộ.”
Ngày xưa, tại khu vực Gò Thập Tháp có mười ngôi tháp Chàm, nhưng trải qua thời gian lâu dài và liên tiếp những cuộc chiến tranh ác liệt dày xéo nên mười ngôi tháp không còn nữa, mà chỉ còn lại những đống gạch hoang tàn đổ nát, ẩn ước dưới những bóng cây cổ thọ và đó đây những tảng đá lớn nhỏ, được chạm trỗ phù điêu mang dấu ấn điêu khắc của nền văn hóa tín ngưỡng Champa. Cũng trong “Đồ Bàn Thành Ký” của Nguyễn Văn Hiển cho rằng: Xưa kia cả vùng gò Thập Tháp nầy là một hoa viên, có tên gọi là “Vườn Lãng Uyển” của nhiều đời vua Chiêm Thành. Do đó mà trong một dịp đi ngang qua thành Đồ Bàn, Ngô Thế Lân, một nhà dật sĩ tài hoa của thế kỷ 17 đã cảm tác một bài thơ như sau:
“Tà dương đình mã vọng
Vô hạn phế hưng tình
Viên uyển tăng vi tự
Cung đình mục vi canh
Tàn sơn dư cổ tháp
Thặng thủy thoáng hoang thành
Thần đạo nguyên vô cứ
Tây quan mạn khắc minh”.
Hoài cổ khi qua thành Đồ Bàn:
“Chiều tà dừng ngựa nhìn
Man mác nỗi hưng vong
Vườn hoa sư làm chùa
Cung điện thành ruộng cày
Núi mòn trơ tháp cổ
Nước ứng đọng thành hoang
Đạo thần vốn huyền nhiệm
Cửa Tây tạm ghi bia”. [1]
Khu gò Thập Tháp nầy phía nam giáp với thành Đồ Bàn, còn ba mặt kia được bao bọc bởi dòng suối Bàn Khê nên tạo thành một vùng rừng đồi độc lập tĩnh mịch. Trên bước đường vân du hóa đạo, Thiền sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch, dừng chân nơi đây, thấy phong thủy hữu tình và địa cuộc đặc biệt như vậy, biết rằng nơi đây là vùng đất tốt để hoằng dương Phật Pháp, liền dừng bước vân du dựng lập một ngôi chùa đặt tên là “Thập Tháp Di Đà Tự”.
Ý NGHĨA DANH HIỆU THẬP THÁP – DI ĐÀ
Thường ngày, các phật tử và du khách xa gần đến chùa lễ Phật, tham quan thưởng ngoạn, họ thấy trong khu viên chùa có đến trên hai mươi ngôi tháp Tổ, nhiều người thắc mắc hỏi: tại sao lại gọi là chùa Thập Tháp?
Nguyên xưa kia tại vùng nầy có mười ngôi tháp Chàm, dân chúng địa phương thường quen gọi là Gò Thập Tháp. Đây là địa danh để ghi nhận dấu tích một thời vàng son của đất nước Chiêm Thành. Khi thiền sư Nguyên Thiều chấn tích nơi đây thì mười ngôi tháp Chàm ấy hầu hết bị sụp đổ. Ngôi chùa được dựng lên dựa lưng vào đồi Long Bích thuộc khu vực gò Thập Tháp, vì vậy mà Thiền sư lấy địa danh đặt tên là Chùa Thập Tháp. Di Đà là danh hiệu của đức Phật hiện làm giáo chủ ở cõi nước Cực Lạc. Di Đà nói cho đủ là A Di Đà, Trung Hoa dịch là Vô Lượng Thọ hay Vô Lượng Quang, có nghĩa là sự thọ mạng lâu dài đến vô lượng (ở đây mang ý nghĩa về thời gian vô lượng) và ánh sáng chiếu khắp đến vô biên (mang ý nghĩa về không gian vô biên). Kết hợp địa danh Thập Tháp và ý nghĩa Di Đà như vậy nên thiền sư Nguyên Thiều đặt tên cho chùa là “Thập Tháp Di Đà”. Với danh hiệu ấy, biểu hiện lên chí hướng cao cả của Thiền sư Nguyên Thiều, có nghĩa là chính tại nơi mười ngôi tháp nầy mà Phật pháp sẽ được cửu trụ theo thời gian và ánh sáng trí tuệ sẽ lan truyền soi sáng khắp muôn nơi.
Một điều đặc biệt nữa là địa danh Thập Tháp được kết hợp với danh hiệu của đức Phật A Di Đà bởi Thiền sư Nguyên Thiều. Chúng ta nên biết rằng Phật Giáo Trung Quốc trải đến đời nhà Tống thì Tịnh Độ tông trở thành một pháp môn tu học chung cho tất cả các tông phái khác. Pháp môn nầy chi phối toàn bộ nền tín ngưỡng của quần chúng phật tử. Tại Việt Nam, Phật giáo đã được truyền bá rất lâu đời, cho nên Tịnh Độ tông cũng đã ngự trị và thấm nhuần sâu sắc trong niềm tin của hầu hết mọi tín đồ Phật tử. Thậm chí tất cả các Phật tử chúng ta, dù tại gia hay xuất gia, mỗi khi gặp nhau thì được chào nhau bằng câu “Nam mô A Di Đà Phật” một cách trân trọng. Thiền sư Nguyên Thiều mặc dầu là một đệ tử chánh truyền của Thiền tông Trung Hoa, đã không phủ nhận điều đó mà ngược lại gần như lấy pháp môn Tịnh Độ làm phương tiện chính yếu trong sự nghiệp truyền bá Phật pháp lâu dài của mình. Điều nầy cũng hoàn toàn thích hợp với ba điểm căn bản: Khế lý, Khế cơ và Khế thời mà Phật giáo thường áp dụng trên con đường hoằng truyền Chánh pháp ở nhiều xứ sở khác nhau.
Một điều đặc biệt, chùa Thập Tháp với ngôi Chánh điện uy nghiêm cổ kính còn lại cho đến ngày nay, được xây dựng vào thời Hòa thượng Thật Kiến – Liễu Triệt (1702-1744), có tất cả 48 cây cột tiêu biểu cho 48 đại nguyện của đức Phật A Di Đà. Đây có phải chăng là chí hướng và lập trường tư tưởng của Thiền sư Nguyên Thiều mà các hàng đệ tử sau nầy nỗ lực phát huy trong quá trình truyền bá Phật pháp tại xứ sở Đàng Trong mới mẻ này?
Cùng với những ý nghĩa trên mà tại Thập Tháp, Thiền sư Đạo Nguyên – Tánh Đề (1656 – 1716) đã sáng tác một bài thi tụng độc đáo, được khắc lên vách đố bằng gỗ nằm ngang trên đầu gian cửa trước ngôi Bảo Điện. Bài thi nguyên văn như sau:
十 座 愈 於 多 寶 塔
門 前 不 用 設 三 車
只 今 淨 土 成 如 是
應 似 重 來 聽 法 華
(Thập tòa dũ ư Đa Bảo tháp
Môn tiền bất dụng thiết tam xa
Chỉ kim Tịnh Độ thành như thị
Ưng tợ trùng lai thính Pháp Hoa.)
Hòa thượng Viên Đạt dịch như sau:
Mười tòa tháp sánh hơn tháp Đa Bảo
Trước cửa không cần thiết đặt ba xe
Cảnh Tịnh Độ hôm nay như thế đó
Cũng như nghe giảng Pháp Hoa nhiều lần.
[1] Trích từ Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức, trang 444 – 445.
(Chùa Thập Tháp Di Đà và Tổ sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch – Thích Viên Kiên biên soạn)