Kinh tăng nhất1

Tác giả: HT. Tuệ Sỹ dịch

[57b26] Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật ở tại nước Xá-vệ, rừng cây Kì-đà, vườn Cấp cô độc, cùng với đại chúng Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị.
Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ nói pháp cho các ngươi nghe; pháp vi diệu, khoảng đầu, khoảng giữa, khoảng cuối thảy đều chân chính, có đầy đủ nghĩa và vị, phạm hạnh thanh tịnh.
Đó là pháp tăng nhất. Các ngươi [57c] hãy lắng nghe, hãy suy ngẫm kỹ! Ta sẽ giảng thuyết.”
Các Tỳ-kheo vâng lời lắng nghe. Phật nói với các Tỳ- kheo:
“Pháp tăng nhất ấy là, một thành pháp, một tu pháp, một giác pháp, một diệt pháp, một chứng pháp.
“Thế nào là một thành pháp? Đó là: không bỏ các pháp thiện.
“Thế nào là một tu pháp? Đó là: thường tự niệm thân.2
“Thế nào là một giác pháp? Đó là: xúc hữu lậu.
“Thế nào là một diệt pháp? Đó là: ngã mạn.
“Thế nào là một chứng pháp? Đó là: vô ngại tâm giải thoát.
“Lại nữa, có hai thành pháp, hai tu pháp, hai giác pháp, hai diệt pháp, hai chứng pháp.
“Thế nào là hai thành pháp? Biết tàm và biết quí.
“Thế nào là hai tu pháp? Chỉ và quán.
“Thế nào là hai giác pháp? Danh và sắc.
“Thế nào là hai diệt pháp? Vô minh và hữu ái.
“Thế nào là hai chứng pháp? Minh và giải thoát.

“Lại nữa, có ba thành pháp, ba tu pháp, ba giác pháp, ba diệt pháp, ba chứng pháp.
“Thế nào là ba thành pháp? 1. Thân cận thiện hữu, 2. Tai nghe pháp âm, 3. Thành tựu pháp tùy pháp.
“Thế nào là ba tu pháp? Đó là ba tam-muội: không tam muội, vô tướng tam-muội, vô nguyện tam-muội.3
“Thế nào là ba giác pháp? Đó là ba thọ: khổ thọ, lạc thọ, phi khổ phi lạc thọ.
“Thế nào là ba diệt pháp? Đó là ba ái: dục ái, hữu ái, vô hữu ái.
“Thế nào là ba chứng pháp? Đó là ba minh: túc mạng trí, thiên nhãn trí và lậu tận trí.
Lại nữa, có bốn thành pháp, bốn tu pháp, bốn giác pháp, bốn diệt pháp, bốn chứng pháp. “Thế nào là bốn thành pháp? Đó là luân pháp: 1. Sống ở trung ương của đất nước. 2. Gần thiện hữu. 3. Tự cẩn thận. 4. Có gốc rễ thiện đã được trồng từ đời trước.
“Thế nào là bốn tu pháp? Đó là bốn niệm xứ: 1. Tỳ- kheo quán thân trên nội thân, tinh cần không biếng nhác, ức niệm không quên, trừ tham ưu ở đời. Quán thân trên ngoại thân, tinh cần không biếng nhác, ức niệm không quên, trừ tham ưu ở đời. Quán thân trên nội ngoại thân, tinh cần không biếng nhác, ức niệm không quên, trừ tham ưu ở đời. 2. Quán thọ. 3. Quán tâm. 4. Quán pháp cũng như vậy.
“Thế nào là bốn giác pháp? Đó là bốn loại thực phẩm: đoạn thực, xúc thực, ý tư thực, thức thực.
“Thế nào là bốn diệt pháp? Đó là bốn thủ: dục thủ, ngã ngữ thủ, giới cấm thủ, và kiến thủ.
“Thế nào là bốn chứng pháp? Đó là bốn Sa-môn quả: Tu-đà-hoàn quả, Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm quả, Ala- hán quả.
“Lại nữa, có năm thành pháp, năm tu pháp, năm giác pháp, năm diệt pháp, năm chứng pháp.

“Thế nào là năm thành pháp? Đó là năm tinh cần chi:41. Tin Phật, Như Lai, Chí Chân, mười hiệu thành tựu.[58a] 2. Không bệnh, thân thường an ổn. 3. Chất trực,
không dua xiểm, hướng thẳng đến con đường dẫn đến Niết-bàn của Như Lai. 4. Chuyên tâm không tán loạn, đọc cũng không quên lãng. 5. Khéo léo quán sát sự sinh diệt của pháp, bằng thực hành của Hiền Thánh mà diệt tận gốc rễ khổ.
“Thế nào là năm tu pháp? Đó là năm căn: tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, và tuệ căn.
“Thế nào là năm giác pháp? Đó là năm thủ uẩn: sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành thức thủ uẩn.
“Thế nào là năm diệt pháp? Đó là năm cái: tham dục cái, sân nhuế cái, thụy miên cái, trạo hối cái, và nghi cái.
“Thế nào là năm chứng pháp? Đó là năm tụ vô học: tụvô học giới, tụ vô học định, tụ vô học tuệ, tụ vô học giải thoát, tụ vô học giải thoát tri kiến.
“Lại nữa có sáu thành pháp, sáu tu pháp, sáu giác pháp, sáu diệt pháp, sáu chứng pháp.
“Thế nào là sáu thành pháp? Đó là sáu pháp tôn trọng: Nếu có Tỳ-kheo tu sáu pháp tôn trọng, đáng kính, đáng trọng, khiến chúng hòa hợp, không có tranh tụng, hiệp nhất, không hỗn tạp. Những gì là sáu? 1. Ở đây, Tỳ-kheo thân thường hành từ, kính đồng phạm hạnh, sống với tâm nhân ái. Đó gọi là pháp, tôn trọng, đáng kính, đáng trọng, khiến chúng hòa hợp, không có tranh tụng, hiệp nhất, không tạp. 2-4. Lại nữa, Tỳ- kheo khẩu hành từ, ý hành từ; được vật lợi dưỡng đúng pháp và những thức ăn ở trong bát cũng đều đem chia cho đồng phạm hạnh khác dùng chung, không phân biệt đây kia. 5. Lại nữa, Tỳ-kheo, đối với đồng phạm hạnh, khéo thọ trì đầy đủ giới mà bậc thánh hành trì, không phạm, không hủy, không nhiễm ô, được bậc trí khen ngợi, thành tựu tâm định. 6. Cùng với các đồng phạm hạnh, thành tựu chính kiến dẫn đến sự xuất yếu của Hiền Thánh, chân chính diệt tận khổ, đó gọi là pháp tôn trọng, đáng kính đáng trọng, khiến chúng hòa hợp, không có tranh tụng, hiệp nhất, không hỗn tạp.
“Thế nào là sáu tu pháp? Đó là sáu tu niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên. “Thế nào là sáu giác pháp? Đó là sáu nội xứ: nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ.
“Thế nào là sáu diệt pháp? Đó là sáu ái thân: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái.
“Thế nào là sáu chứng pháp? Đó là sáu thần thông: 1. Thần túc thông chứng. 2. Thiên nhĩ thông chứng. 3. Tri tha tâm thông chứng. 4. Túc mạng thông chứng. 5.
Thiên nhãn thông chứng. 6. Lậu tận thông chứng. “Lại nữa, có bảy thành pháp, bảy tu pháp, bảy giác pháp, bảy diệt pháp, bảy chứng pháp.
“Thế nào là bảy thành pháp? Đó là bảy tài sản: tín làtài sản, giới là tài sản, tàm là tài sản, quí là tài sản, đa văn là tài sản, xả thí là tài sản, tuệ là tài sản.
“Thế nào là bảy tu pháp? Đó là bảy giác chi: ở đây, Tỳ-kheo [58b] tu niệm giác chi, y vô dục, y tịch diệt, y viễn ly. Tu pháp, tu tinh tấn, tu hỷ, tu khinh an, tu
định, tu xả, y vô dục, y tịch diệt, y viễn ly.
“Thế nào là bảy giác pháp? Đó là bảy trú xứ thức: Hoặc có chúng sinh với nhiều thân khác nhau, nhiều tưởng khác nhau, đó là một phần chư Thiên và loài người vậy. Đó là thức trú thứ nhất. Lại có chúng sinh, với nhiều thân khác nhau nhưng một tưởng, đó là trời Phạm chúng lúc mới sinh thời kiếp sơ. Đó là thức trú thứ hai. Lại có chúng sinh với một thân nhưng nhiều tưởng khác nhau, đó là trời Quang âm. Đó là thức trú thứ ba. Lại có chúng sinh với một thân và một tưởng giống nhau, đó là trời Biến tịnh. Đó là thức trú thứ tư. Lại có chúng sinh trú không vô biên xứ. Đó là thức trú thứ năm. Lại có chúng sinh trú ở thức vô biên xứ. Đó là thức trú thứ sáu. Hoặc trú vô sở hữu xứ. Đó là thức trú thứ bảy.
“Thế nào là bảy diệt pháp? Đó là bảy tùy miên: tùy miên dục ái, tùy miên hữu ái, tùy miên kiến, tùy miên mạn, tùy miên sân nhuế, tùy miên vô minh, tùy miên nghi.
“Thế nào là bảy chứng pháp? Đó là bảy năng lực diệt tận lậu hoặc: ở đây, Tỳ-kheo, đối với hết thảy khổ, sự tập khởi của khổ, sự diệt trừ, vị ngọt, sự tai hại, và sự xuất ly của khổ mà biết như thật, thấy như thật; quán sát dục như hầm lửa, và cũng như đao kiếm, biết dục, thấy dục, không tham nơi dục, tâm không trụ nơi dục. Ở trong đó lại khéo quán sát; sau khi đã như thật giác tri, như thật thấy, tham, tật, ác bất thiện pháp của thế gian không rò rỉ, không sinh khởi. Tu tứ niệm xứ, tu tập nhiều lần, thực hành nhiều lần. Tu năm căn,năm lực, bảy giác chi, tám chi Hiền Thánh đạo, tu tập nhiều lần, thực hành nhiều lần.
“Lại nữa, có tám thành pháp, tám tu pháp, tám giác pháp, tám diệt pháp, tám chứng pháp.
“Thế nào là tám thành pháp? Đó là tám nhân duyên khiến cho chưa sở đắc phạm hạnh nhưng có thể sở đắc trí, và nếu đã sở đắc phạm hạnh thì trí tăng trưởng. Những gì là tám? Ở đây, Tỳ-kheo sống nương tựa Thế Tôn, hoặc nương tựa sư trưởng, hoặc nương tựa đồng phạm hạnh có trí tuệ, sinh tâm tàm quí, có ái, có kỉnh. Đó là nhân duyên thứ nhất, khiến cho chưa đắc phạm hạnh mà chứng đắc trí; nếu đắc phạm hạnh rồi thì trí tăng trưởng. Lại nữa, nương tựa Thế Tôn (hoặc đồng phạm hạnh), tùy thời mà thưa hỏi: ‘Pháp này có ý nghĩa gì? Dẫn đến đâu?’, khi ấy các Tôn trưởng liền mở bày cho nghĩa lý thậm thâm. Đó là nhân duyên thứ hai. Sau khi nghe pháp thân tâm an lạc, an tĩnh. Đó là nhân duyên thứ ba. Không luận bàn những tạp luận vô ích làm chướng ngại đạo; vị ấy đến giữa đại chúng, hoặc tự mình thuyết pháp, hoặc thỉnh người khác thuyết, mà vẫn không bỏ sự im lặng của Hiền Thánh. Đó là nhân duyên thứ tư. Đa văn, quảng bác, ghi nhớ không quên các pháp thâm áo, thiện xảo ở khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng cuối, [58c] có nghĩa có vị, chân thật, đầy đủ phạm hạnh. Sau khi nghe thì ghi nhớ trong lòng, kiến giải không lay động. Đó là nhân duyên thứ năm. Tu tập tinh cần, diệt ác tăng thiện, gắng sức thực hành không bỏ pháp ấy. Đó là nhân duyên thứ sáu. Bằng trí tuệ mà nhận thức pháp sinh diệt, chỗ thú hướng của Hiền Thánh, tận cùng biên tế của khổ. Đó là nhân duyên thứ bảy. Quán tướng sinh và tướng diệt của năm thủ uẩn: Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự diệt tận của sắc. Đây là sự tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức, sự diệt tận của thọ, tưởng, hành, thức. Đó là nhân duyên thứ tám, khiến cho chưa sở đắc phạm hạnh mà sở đắc trí, nếu đã sở đắc phạm hạnh thì trí tuệ tăng trưởng.
“Thế nào là tám tu pháp? Đó là tám chi Hiền Thánh đạo: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính niệm, chính định.
“Thế nào là tám giác pháp? Đó là tám pháp ở đời: lợi, suy, vinh, nhục, khen, chê, khổ, lạc.
“Thế nào là tám diệt pháp? Đó là tám tà: tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.
“Thế nào là tám chứng pháp? Đó là tám giải thoát. Bên trong có sắc tưởng, quán sắc: giải thoát thứ nhất. Bên trong không có sắc tưởng, quán ngoại sắc: giải thoát thứ hai. Tịnh giải thoát: giải thoát thứ ba. Vượt sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, an trú không vô biên xứ: giải thoát thứ tư. Vượt qua không vô biên xứ, an trú thức vô biên xứ: giải thoát thứ năm. Vượt qua thức vô biên xứ, an trú vô sở hữu xứ: giải thoát thứ sáu. Vượt qua vô sở hữu xứ, an trú phi tưởng phi phi tưởng xứ: giải thoát thứ bảy. Vượt phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trú tưởng thọ diệt: giải thoát thứ tám.
“Lại nữa, có chín thành pháp, chín tu pháp, chín giác pháp, chín diệt pháp, chín chứng pháp.
“Thế nào là chín thành pháp? Đó là chín tịnh cần chi: giới tịnh cần chi, tâm tịnh cần chi, kiến tịnh cần chi, độ nghi tịnh cần chi, phân biệt tịnh cần chi, đạo tịnh cần chi, trừ tịnh cần chi, vô dục tịnh cần chi, giải thoát tịnh cần chi.
“Thế nào là chín tu pháp? Đó là chín gốc rễ của hỷ: 1. hỷ, 2. ái, 3. duyệt, 4. lạc, 5. định, 6. như thật tri, 7. trừ xả, 8. vô dục, 9. giải thoát.
“Thế nào chín giác pháp? Đó là chín chúng sinh cư. 1. Hoặc có chúng sinh có nhiều thân khác nhau, với nhiều tưởng khác nhau, tức là một phần chư Thiên và loài Người. Đó là nơi cư trú thứ nhất của chúng sinh. 2. Lại có chúng sinh có nhiều thân khác nhau, nhưng với một tưởng giống nhau, tức là trời Phạm chúng lúc mới sinh thời kiếp sơ. Đó là cư trú thứ hai của chúng sinh. 3. Lại có chúng sinh với một thân giống nhau, nhưng với nhiều tưởng khác nhau, tức là trời Quang âm. Đó là cư trú thứ ba của chúng sinh. 4. Lại có chúng sinh với một thân một tưởng giống nhau, tức là trời Biến tịnh. Đó là cư trú thứ tư của chúng sinh. 5. Lại có chúng sinh không có tưởng và không có giác tri, tức là trời Vô tưởng. Đó là cư trú thứ năm của chúng sinh. 6. Lại có chúng sinh [59a] an trú hư không vô biên xứ. Đó là cư trú thứ sáu của chúng sinh. 7. Lại có chúng sinh an trú thức vô biên xứ. Đó là an trú thứ bảy của chúng sinh. 8. Lại có chúng sinh an trú vô sở hữu xứ. Đó là cư trú thứ tám của chúng sinh. 9. Lại có chúng sinh an trú phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là cư trú thứ chín của chúng sinh.
“Thế nào là chín diệt pháp? Đó là chín gốc rễ của ái. Nhân ái có tầm cầu. Nhân cầu có lợi. Nhân lợi códụng. Nhân dụng có dục. Nhân dục có chấp trước. Nhân trước có tật đố. Nhân tật có thủ. Nhân thủ có hộ.
“Thế nào là chín chứng pháp? Đó là chín thứ đệ diệt. Nếu nhập sơ thiền, thì gai nhọn là âm thanh bị diệt trừ. Nhập đệ nhị thiền, gai nhọn là tầm và tứ bị diệt trừ. Nhập đệ tam thiền, gai nhọn là hỷ bị diệt trừ. Nhập đệ tứ thiền, gai nhọn là hơi thở ra vào bị diệt trừ. Nhập không vô biên xứ, gai nhọn là sắc tưởng bị diệt trừ. Nhập thức vô biên xứ, gai nhọn là không tưởng bị diệt trừ. Nhập vô sở hữu xứ, gai nhọn là thức tưởng bị diệt trừ. Nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, gai nhọn là vôsở hữu tưởng bị diệt trừ. Nhập diệt tận định, gai nhọn là tưởng và thọ bị diệt trừ.
“Lại nữa, có mười thành pháp, mười tu pháp, mười giác pháp, mười diệt pháp, mười chứng pháp.
“Thế nào là mười thành pháp? Đó là mười cứu hộ pháp. 1. Tỳ-kheo đầy đủ hai trăm năm mươi giới, đầy đủ oai nghi, thấy lỗi nhỏ nhặt sinh tâm lo sợ lớn, chân chính học giới, tâm không nghiêng lệch. 2. Có được thiện tri thức. 3. Ngôn ngữ trung chính, nhẫn nhịn được nhiều điều. 4. Ưa cầu thiện pháp, phân bố không tiếc lẫn. 5. Các đồng phạm hạnh có việc phải làm liền đến giúp đỡ không lấy làm mệt nhọc, làm được những việc khó làm và cũng dạy người khác làm. 6. Nghe nhiều; nghe xong thì ghi nhớ không hề quên. 7. Tinh tấn, diệt trừ bất thiện pháp, tăng trưởng thiện pháp. 8. Thường tự chuyên niệm, không có tưởng khác, nhớ những hành vi thiện từ trước như thấy trước mắt. 9. Thành tựu trí tuệ, quán sự sinh diệt của các pháp, bằng pháp luật Hiền Thánh mà đoạn trừ gốc khổ. 10. Vui với sự nhàn cư, chuyên niệm tư duy, ở trung gian thiền, không có đùa giỡn.
“Thế nào là mười tu pháp? Đó là mười chính hành.Chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính niệm, chính định, chính giải thoát, chính tri.
“Thế nào là mười giác pháp? Đó là mười sắc xứ. Nhãn xứ, nhĩ, tỉ, thiệt, thân xứ; sắc, thanh, hương, vị, xúc xứ.
“Thế nào là mười diệt pháp? Đó là mười tà hành. Tàkiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà giải thoát, tà trí.
“Thế nào là mười chứng pháp? Đó là mười vô học pháp. Vô [59b] học chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính niệm, chính định, chính giải thoát, chính trí.
“Các Tỳ-kheo, đó tăng nhất pháp. Ta nay đã nói cho các ngươi pháp như vậy. Ta, Như Lai, đã làm đầy đủ những điều cần làm cho đệ tử. Với lòng thương yêu, Ta đã răn dạy các ngươi. Các ngươi cũng nên tinh tấn phụng hành.
“Này các Tỳ-kheo, hãy ở chỗ thanh vắng, dưới gốc cây hay bãi đất trống, tinh cần tọa thiền, chớ tự để mình buông lung. Nay không nỗ lực,về sau hối hận nào có ích gì. Đó là lời Ta răn dạy, hãy tinh tấn thọ trì.”
Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.5

__________________

Chú thích:

* 佛說長阿含第二分增一經第七
1 Bản Hán, quyển 9, Đại I tr. 57b-59b. Đại thể, đồng nhất với kinh số 10. “Thập thượng” ở trên. Kinh này có các hạng mục ngắn hơn và do chính Phật thuyết.
2 Tức niệm thân, hay thân hành niệm, Pāli: kāyagatāsati sātasahagatā.

3 Vô tác tam muội.

4 Nguyên Hán: diệt tận chi.

5 Bản Hán, hết quyển 9.

___________________________

Kinh Trường A-Hàm I , Phần Hai, 11. Kinh Tăng Nhất

Dịch và chú: HT Tuệ Sỹ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *