…“Ðêm đến đã lâu rồi! Ngài hãy chọn một con đường trong hai con đường: Danh vọng hay Từ bi. Ngài muốn làm một vị Đại vương hay bỏ ngai vàng, dấn thân trong cát bụi?”
– Ta sẽ dấn thân trong cát bụi.
Trong im lặng của đêm đen, ta đọc thấy phận ta viết bằng chữ bạc của trăng sao!
Ta phải đi!
Ta sẽ ruồng bỏ ngôi báu.
Ta không muốn chinh phục đất cát bằng lưỡi kiếm nhọn. Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong máu đào của muôn bãi chiến để lưu lại cho hậu thế một kỷ niệm gớm ghê!
Ta muốn để chân trinh bạch trên đường chông gai, lấy đất làm giường, lấy cỏ cây làm áo, kiếm hạt cơm bố thí để nuôi thân.
Tiếng kêu đau thương của thế giới xé rách màng tai, lòng Từ Bi của ta chỉ muốn xoá bỏ những cảnh khổ của nhân loại.
Ta phải hy sinh tất cả và phấn đấu cho đến ngày tìm ra được phương thuốc cứu khổ.
Ta tin rằng phương thuôc ấy thế nào cũng có, nhưng ta tìm chưa ra đấy thôi.
Loài người khi mới sơ khai, chịu tối tăm rét mướt cho đến một ngày nào đó, họ đã tìm được ngọn lửa trong đá lạnh. Họ đã nghiến ngấu toàn thịt mãi cho đến ngày tìm được cây lúa, mọc lẫn lộn trong những cây cỏ khác. Họ ú ớ bập bẹ cho đến ngày tìm ra tiếng nói trong cổ họng. Những của quý ấy nằm sờ sờ trước mắt, nhưng nào phải tìm được dễ dàng đâu? Có cái gì quý báu mà không phải gia công tìm kiếm, không phải đem hết sức lực, trí não để chinh phục, và một tình thương mãnh liệt dẫn đường?
Nay ta ra đi, bỏ hết những lạc thú ở cung điện, mang một tình thương rộng lớn, một thân thể cường tráng, chưa hề bị tật bệnh tàn phá, một trí tuệ minh mẫn chưa bị dục vọng làm lu mờ, ta tin chắc thế nào cũng tìm ra được ánh sáng, thấy rõ con đường chánh để đưa chúng sanh đi.
Hỡi nhân loại đang quằn quại đau thương, hỡi cõi đời sầu khổ!
Vì các người mà ta đành bỏ tuổi măng tơ, bỏ ngôi báu, bỏ những ngày vàng và đêm ngọc, gỡ cánh tay bám víu của người vợ hiền, cắt ngang tình yêu mãnh liệt của phụ vương và xa lánh đứa con thơ đang nằm trong bụng mẹ.
Hỡi phụ hoàng, hiền thê, bào nhi và xã tắc!
Xin hãy gắng chịu sự chia ly này cho đến ngày tôi tìm ra Đạo.
– Xa Nặc, hãy đem con ngựa Kiền Trắc ra cho ta!
Tên giữ ngựa ngạc nhiên, dụi mắt hỏi:
– Ngài muốn đi đâu trong lúc tăm tối này?
Ngài vỗ vào vai Xa Nặc:
– Người hãy nói nhỏ!
Chính vì mọi vật đang lúc còn tăm tối ta mới ra đi. Ta đi để thoát cái ngục vàng này mà ta đang bị giam hãm. Ta đi tìm chân lý để cứu độ chúng sanh đây.
– Ngài bỏ ngôi báu này, bỏ nước nhà này mà Ngài sẽ làm chúa tể, để nắm cái bát của kẻ ăn xin?
– Phải! Ta muốn thế. Ta muốn đừng bịn rịn với tổ quốc nhỏ hẹp này để được yêu vũ trụ rộng lớn. Ta muốn bỏ những kho báu bèo mây để đi tìm cho nhân loại những của quý vĩnh viễn. Ðem con Kiền Trắc ra đây.
Xa Nặc quỳ xuống, chắp tay van xin:
– Xin Ngài hãy nghĩ đến sự đau khổ của hoàng thượng, nghĩ đến nỗi sầu thương của công chúa. Khi Ngài đi rồi, lấy ai bảo hộ những người thân của Ngài nữa?
– Người ạ. Ta không thể ở bên cạnh những người thân để hưởng thụ những lạc thú ích kỷ. Vì yêu phụ hoàng ta, yêu vợ con ta hơn những lạc thú của chính ta, nên ta ra đi để tìm một tình yêu vĩnh viễn cho cả mọi người. Thôi, người hãy đem con Kiền Trắc ra đây!
Xa Nặc buồn bã đi vào chuồng, đem con KiềnTrắc ra, lấy yên cương buộc vào, phủ lên mình ngựa một tấm nhung vàng. Con ngựa thấy Thái Tử thì mừng rỡ, hí lên. Ngài vỗ nhẹ vào gáy nó:
Kiền Trắc ơi! Ta nhờ con chở ta đi trong một cuộc hành trình xa, xa lắm. Ðêm nay ta đi để tìm Chánh Đạo. Ta chưa biết rõ nó ở đâu nhưng ta sẽ không dừng bước, nếu ta chưa tìm ra được nó. Con hãy hăng háí can đảm lên! Không một trở lực nào ngăn cản nổi, dù đó là một ngàn lưỡi gươm sáng cản đường, hay đó là thành cao hố hiểm. Con phải phi như một luồng bão để giúp chủ con! Sau này nếu ta Thành Đạo, con sẽ dự một phần công đức.
Ngài nhẹ nhàng nhảy lên mình ngựa. Xa Nặc nhảy theo ngồi sau lưng Ngài.
Con ngựa trườn tới, rồi phi, phi… Những tia lửa sáng loè tung toé dưới bốn vó ngựa đập vào đá sỏi của con đường mờ…
Sao mai đã lên quá nửa sào. Gió mai đã bắt đắu thổi lại. Mặt nước sông Anoma (A Nô Ma) rào rào dậy sóng.
Thái tử gò mạnh dây cương nhảy xuống ngựa: con đường mòn tới đây là dứt nẻo.
Ngài trao cương ngựa cho Xa Nặc, từ biệt:
Ta rất cám ơn người. Tình ta đối với người rất nặng và ta nhớ mãi cái ơn này. Ta nhờ ngươi dắt con Kiền Trắc về; và đây, tấm áo hoàng vương mà ta không cần đến nữa; đây, sợi dây lưng nạm ngọc, và nắm tóc mây mà ta đã cắt với lưỡi kiếm này, ta nhờ ngươi đem về dâng cho phụ hoàng và tâu với ngài hãy tạm quên ta cho đến ngày ta trở về, mười lần rực rỡ hơn bây giờ, nhờ ánh sáng của đạo ta tìm được.
Xa Nặc một mực đòi xin theo. Nhưng Thái tử cương quyết chối từ. Biết không thể chuyển lay được Thái Tử. Xa Nặc nặng nề trèo lên mình ngựa. Nhưng con ngựa dậm mãi hai chân trước, không chịu đi. Thái tử vỗ nhẹ vào gáy nó, bảo:
– Thôi, con hãy về! Con không thể dẫm chân lên những con đường mới khác mà chỉ một mình ta là có thể tìm được.
Thôi con hãy về! Con ngựa chậm chạp bước đi. Xa Nặc quay lui nhìn Thái tử…
Con đường mòn đến đây là dứt nẻo!
Thái tử đứng nhìn theo. Trên đường về cung, từng lớp bụi mù quay lộn trong gió sớm!
Hình ảnh Xa Nặc và con Kiền Trắc xa dần, xa dần, khi ẩn, khi hiện, rồi mất hẳn sau những đám bụi hồng kia.
Con đường mòn đến đây là dứt nẻo!
…
Dứt với quãng đời quá khứ, sau hình ảnh cuối cùng của Xa Nặc và Kiền Trắc, đức Thích Ca xây mặt về phía trước.
Phía trước toàn một màu xanh đậm của nước và rừng!
Cảnh tượng hùng vĩ ở đây làm rợn người yếu vía: Sông A Nô Ma (ANoMa) trùng trùng dậy sóng. Ðiệp điệp bên kia bờ, từng dãy núi chồng dựng lên nhau.
Hoang vu, hoang vu vây cùng mọi ngả.
Chưa có một vết chân người để lại nơi đây!
Từ nay muốn đến những chóp núi nhuộm vàng trong ánh nắng ban mai kia, đức Thích Ca chỉ có một cách, là tự vạch lấy con đường.
Ðá ở đấy có lẽ cứng lắm, dây hoang chằng chịt chắc nhiều và bao nhiêu gai góc nữa!
Nhưng trước mắt Ngài, toàn một màu xanh đậm. Sắc màu ấy gây nguồn hy vọng, và tin ở sức mạnh của mình, Ngài mạnh bạo bước đi…
(Trích: Ánh Đạo Vàng – Võ Đình Cường)