04 – DI-GIÀ BỒ-TÁT
Thiện Tài đồng tử thứ tư đến nước Thát Ly Tỵ Chà trong thành tự tại tham phỏng đức Di Già Bồ Tát (lương y). Hỏi rồi làm lễ rải hương hoa báu, phóng quan chói rọi, phân biệt luân tự – mỗi chữ thành mỗi vòng tròn sáng rỡ – cứu xét muôn loại tiếng, ngộ pháp tổng trì – Thần chú đà la ni – Được Bồ Tát Diệu Âm đà la ni quang minh pháp môn, chứng sanh quí trụ Bồ Tát.
Tán:
檀末金花香寶珍
繽紛散後現威神
騰騰光照三千界
落落言分萬字輪
鬱密林蠻處虎豹
深比淵澤聚龍麟
妙音唱出陀羅語
辨盡胡人與漢人
Phiên âm:
Đàn mạt kim hoa hương bảo trân
Tân phân tán hậu hiện oai thần
Đằng đằng quang chiếu tam thiên giới
Lạc lạc ngôn phân vạn tự luân
Uất mật lâm man tàng hổ báo
Thâm trầm uyên trạch tụ long lân
Diệu âm xướng xuất đà la ngữ(5)
Biện tận Hồ nhân dữ Hán nhân
Dịch nghĩa:
Lớp lớp từng từng hoa bảo trân
Khói hương nghi ngút hiện uy thần
Ba nghìn thế giới bừng bừng sáng
Muốn ức chữ vầng lẽ lẽ phân
Rừng núi âm u tàng hổ báo
Vực đầm thăm thẳm hội long lân
Giọng mầu xướng phát đà la ngữ
Thông suốt Hồ ngôn với Hán nhân
05 – TRƯỞNG GIẢ GIẢI THOÁT
Thiện Tài đồng tử thứ năm đến xóm làng Trụ Lâm tham phỏng với Trưởng giả Giải Thoát. Trong một thân hiện cõi Phật mười phương, tâm với Phật không khác, quốc độ khác gì không lại không qua, cần thấy tức thấy. Được Như Lai vô ngại Trng nghiêm pháp môn, chứng Cụ túc phương tiện trụ Bồ Tát.
Tán:
十二年中到住林
住林深處訪知音
有時要見十方佛
無事閑觀一片心
不去不來如焰影
緣生緣滅過光陰
莊嚴門啟誰人到
幽徑落華流水深
Phiên âm:
Thập nhị niên trung đáo trụ lâm
Trụ lâm thâm xứ phóng tri âm
Hữu thời yếu kiến thập phương Phật
Vô sự nhàn quan nhất phiến tâm
Bất khứ bất lai như diệm ảnh
Duyên sanh duyên diệt quá quang âm
Trang nghiêm môn khải thùy nhân đáo
U cảnh lạc hoa lưu thủy thâm.
Dịch nghĩa:
Hun hút làng xa ở Trụ Lâm
Mười hai năm chẵn gặp tri âm
Lúc cần thấy khắp mười phương Phật
Việc rỗi xem nhàn một cảnh tâm
Không đến không đi làn điễn chớp
Duyên sanh duyên diệt bóng quang âm
Cữa trang nghiêm mở mừng ai đó
Nước chảy hoa rơi ngỏ vắng thầm.
06 – HẢI TRÀNG TỲ-KHEO
Thiện Tài đồng tử thứ sáu đến ngang bờ cõi Diêm Phù Đề này, nước Ma Ly Già La tham phỏng đức Hải Tràng tỳ kheo. Nửa năm quán xét định cảnh tam muội, hiện mười bốn loại, vọt trăm ngàn tướng lạ, trí Bát Nhã soi sáng không chỗ nào mà không rõ bày. Được Bát Nhã ba la mật tam muội quang minh pháp môn chứng chánh tâm trụ Bồ Tát.
Tán:
光陰已過半身間
終日冥然靜若山
身上出生十四類
毫中涌現百千般
一心觀察無休息
六月思惟不等閒
摩利伽天好春色
柳鸎梁鷰語綿蠻
Phiên âm:
Quang âm dĩ quá bán niên gian
Chung nhật minh nhiên tịnh nhược san
Thân thượng xuất sanh thập tứ loại
Hào trung dũng xuất bách thiên ban
Nhất tâm quán sát vô hưu tức
Lúc nguyệt tư duy bất đẳng nhàn
Ma Lợi Già thiên hảo xuân sắc
Liễu oanh lương yếu ngữ miên mang.
Dịch nghĩa:
Thì gian thấm thoát nửa năm tròn
Trọn buổi thầm trôi lặng tựa non
Mười bốn loại sanh trên vóc cả
Trăm nghìn thức mọc giữa mày con
Một tâm quán sát không thôi nghỉ
Sáu tháng tư duy chẳng mỏi mòn
Ma lợi già la màu rực rỡ
Trời xuân oanh yến gọi chon von.