KINH PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ GIẢNG THUẬT, PHẦN 05 – THÍCH HUYỀN CHÂU CHỦ GIẢNG
8- Nan Đà
Nan Đà là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Hỷ, nên trong kinh có chỗ gọi ngài là Hỷ tôn giả (tôn giả vui vẻ). Ngài là em cùng cha khác mẹ với đức Phật. Đức Phật sinh vào ngày 8/4 còn ngài thì sinh 9/4, kém Phật một tuổi. Đức Phật có 32 tướng tốt, còn ngài có 31 tướng tốt. Đức Phật cao khoảng 1m83, ngài thấp hơn Phật một lóng tay.
Kinh văn có khi ghép chung tên ngài với người vợ sắp cưới là Tôn Đà La. Tôn Đà La Nan Đà tức là Nan Đà của nàng Tôn Đà La. Qua đó, chúng ta cũng có thể hình dung tình yêu của họ keo sơn gắn bó đến dường nào.
Hôm nọ, đến ngày họ cưới nhau, đức Phật biết Nan Đà có nhân duyên xuất gia, nên từ sáng sớm đã trở về hoàng cung. Khi Thế Tôn về đến nơi, Nan Đà ra đón, bưng lấy bình bát sớt thức ăn dâng cúng Phật. Đức Phật thản nhiên đi một vòng chào hỏi mọi người, rồi lặng lẽ đi ra. Nan Đà tìm cách trao bình bát, nhưng Phật làm ngơ như không hay biết gì cả. Chẳng biết làm sao, ngài đành phải theo gót Phật đi dần ra cổng để tìm cơ hội.
Từ khi yêu nhau, đôi uyên ương này chưa hề xa nhau ba thước. Nhưng hôm nay Nan Đà phải xa Tôn Đà La hơn bốn thước rồi, nhất là trong ngày cưới nữa. Trước tình thế đó, nàng giận dỗi, đốt một nén nhang và cắm xuống đất rồi nói:
– Nếu chàng đi theo Phật, đến khi nén nhang tàn rồi mà vẫn chưa về thì cuộc hôn nhân này đành hủy bỏ.
Nói đoạn nàng rơi lệ, bỏ vào nhà trong. Còn Nan Đà thì cứ thế đi theo Phật để tìm cơ hội trả lại bình bát. Có lẽ cũng vì quá kính trọng người anh, nên ngài không dám xử sự bất kính. Đoạn đường từ chỗ lễ cưới đến tinh xá Kỳ Hoàn không xa lắm, nhưng đức Phật dùng thần thông kéo dãn thành 5 dặm. Dân chúng trong thành đều thấy Nan Đà đi theo sau Phật về đến tinh xá, họ đồn ầm lên là ngài đã bỏ rơi Tôn Đà La và xuất gia theo Phật rồi.
Về đến tinh xá, Nan Đà vội trao bình bát cho Phật để nhanh chóng trở về nhà. Nhưng đức Phật ngăn lại và dạy rằng:
– Hiện giờ dân chúng ai cũng nghĩ ông đã xuất gia và Như Lai đã kéo đoạn đường dài ra 5 dặm nên ông có về trong lúc này thì cũng không kịp lễ cưới, và không khéo còn bị mang thêm nhiều tiếng thị phi khác nữa. Thôi thì ông hãy ở lại đây, xuất gia trong giáo pháp của Như Lai đi.
Lời dạy của Phật như có sức mạnh quyền năng, tuy trong lòng không thích, nhưng Nan Đà vẫn làm theo ý Phật. Mặc dầu vậy, thân xuất gia nhưng lòng mãi nhớ thương Tôn Đà La ngày đêm không ngớt và ngài cứ nghĩ đến việc trốn thoát về với người yêu kiều diễm của mình. Biết rõ điều đó, nên mỗi khi đi khất thực, đức Phật sai Nan Đà ở nhà quét dọn tinh xá. Một hôm, ngài tranh thủ làm nhanh xong công việc, rồi nghĩ rằng đức Phật thường khất thực xong, sẽ theo đường lớn về tinh xá, giờ mình tranh thủ theo con đường nhỏ trốn thoát. Nhưng khi đang chạy theo đường nhỏ thì thấy bóng dáng Thế Tôn đi lại, ngài bèn núp bên gốc cây. Đức Phật đi lại gần gốc cây và hỏi:
– Nan Đà, sao không ở tinh xá làm công việc của mình, ra đây làm gì?
Nghe Phật hỏi thế, không lý nào nói thật là mình bỏ trốn, nên ngài trả lời:
– Bạch Thế Tôn! Con nhớ Thế Tôn quá, nên chạy ra đây đón Ngài.
– Thế à! Vậy thì hãy mang bình bát, cùng Như Lai về tinh xá nhé!
Nhiều lần Nan Đà tìm cách trốn thoát nhưng đều bị Thế Tôn giữ lại. Cho đến một hôm, đức Thế Tôn rủ ngài lên núi dạo mát. Ngài mừng rỡ, nghĩ rằng đây là cơ hội tốt để bỏ trốn. Sáng sớm ngài theo Phật lên núi. Đức Phật chỉ ngài thấy một con khỉ già da dẻ nhăn nheo và hỏi:
– Nan Đà, ông xem con khỉ già này so với Tôn Đà La của ông ai đẹp hơn?
Nan Đà thưa:
– Thế Tôn khéo đùa, làm sao đem con khỉ già này so với sắc đẹp Tôn Đà La của con được. Tôn Đà La của con kiều diễm tuyệt trần.
Đức Phật lại dùng thần thông, dắt Nan Đà dạo lên cõi trời. Nơi đây ngài nhìn thấy 500 tiên nữ ca vui múa hát, sống trong lầu các nguy nga, nhưng chẳng thấy bóng dáng thiên chủ đâu cả. Ngài tò mò hỏi vài cô tiên:
– Sao ở đây tôi không thấy thiên chủ đâu cả. Ai là thiên chủ của các cô vậy?
Tiên nữ trả lời:
– Thiên chủ chúng tôi là Nan Đà, em của Phật, hiện giờ đang theo Phật xuất gia tu hành, đợi khi đắc quả sinh lên đây và 500 chị em chúng tôi đều là vợ của ngài.
Trên đường về, đức Phật hỏi:
– Sắc đẹp của 500 tiên nữ so với Tôn Đà La của ông thế nào?
Nan Đà thưa:
– Sắc đẹp Tôn Đà La so với 500 tiên nữ chẳng khác nào so sánh con khỉ già với Tôn Đà La vậy.
Đức Phật hỏi:
– Vậy ông có muốn lên trời sống với 500 tiên nữ hay về ở với Tôn Đà La?
Ngài im lặng mỉm cười. Từ đó về sau ngài thiền định siêng năng, nhưng trong lòng vẫn luôn tơ tưởng đến 500 tiên nữ.
Một hôm, đức Phật lại dắt Nan Đà xuống địa ngục. Khi đến địa ngục, trong lúc dạo xem những cảnh trả quả khổ đau của chúng sinh, ngài thấy hai con quỷ đang nung một vạc dầu thật to. Nhưng một con thì lui cui thổi lửa, lửa nhá nhem không cháy; còn một con thì nằm ngủ li bì. Ngài nghĩ bụng, loài quỷ mà cũng làm biếng, đun thế này biết đến bao giờ mới sôi. Nghĩ đoạn, ngài ngứa ngáy đá vào chân con quỷ đang nằm ngủ. Quỷ hé mắt nhìn, và hỏi ngài trong cơn ngái ngủ:
– Ngài có việc gì không? Sao lại phá rối giấc ngủ của tôi?
Nan Đà đáp:
– Các ngươi đun vạc dầu này để luộc ai vậy? Mà đun thế này thì biết đến bao giờ mới sôi?
Quỷ trả lời:
– Ôi chao! Vội làm gì. Vạc dầu này dùng để đun Nan Đà, em của Phật. Vì ông ta tu hành mà cứ ngày đêm tơ tưởng 500 tiên nữ. Khi sinh lên đó, hưởng thú vui ngũ dục đến lúc hết phước thì rơi xuống đây. Ông nghĩ xem, thời gian ông ấy sinh lên cõi trời, sống lâu trên đó, rồi mới rơi xuống đây, chúng tôi đâu cần vội làm gì.
Nghe thế, Nan Đà ớn lạnh tóc gáy, tự biết phước đức trong cảnh giới hữu lậu trời người thật như ảo mộng phù du. Từ đó, ngài phát tâm mong cầu liễu thoát sinh tử. Ngày đêm thiền định, chẳng bao lâu ngài chứng quả A la hán.
Tương truyền rằng ngoại đạo lõa thể đương thời hiểu sai ý nghĩa bản lai diện mục là sống với cái ban đầu khi mới sinh ra, tức không mặc quần áo gì cả. Vì thế họ tập hợp thành nhóm nhiều người, sinh hoạt theo kiểu riêng của mình. Trưởng lão Xá Lợi Phất từng dùng trí tuệ lý luận bẻ gãy quan điểm sai lầm của họ, nhưng họ vẫn không chịu quy y theo Phật. Đến khi thấy Tôn giả Nan Đà bước vào hội chúng, những người ngoại đạo nghĩ rằng: “Ông Trưởng lão nhỏ con mà đã biện luận quá giỏi, giờ đến ông Tôn giả cao lớn này thì chúng ta không thể nào hơn được”. Nghĩ thế, họ bèn quy y với ngài. Thế mới biết phải có nhân duyên thì mới độ được chúng sinh.
9- A Nan Đà
A Nan Ðà gọi tắt là A Nan, là con thứ của Bạch Phạn Vương, tức là em con chú của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. A Nan sinh ra trong đêm đức Phật thành đạo cho nên tên ngài có nghĩa là Khánh Hỷ.
Trong chuyến đức Phật về thăm hoàng cung, ngài mến mộ tướng hảo của Phật nên phát tâm xuất gia. Bản tính siêng năng, thông minh tột đỉnh, cho nên tất cả những pháp hội đức Phật giảng kinh ngài đều có mặt, và nhớ rõ từng lời Phật dạy. Bởi thế, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi có kệ khen rằng:
“Tướng như trăng thu đầy
Mắt tựa hoa sen xanh
Phật Pháp như biển rộng
Rót vào tâm A Nan.”
Năm đức Phật 50 tuổi, tăng đoàn thấy Phật cần một thị giả thường trực bên cạnh để giúp đỡ mọi sự cần thiết. Tôn giả Mục Kiền Liên thấy trong số đệ tử không ai hơn A Nan, nên Tôn giả khuyên A Nan rằng:
– Này A Nan! Ý đức Thế Tôn muốn ông làm thị giả, chỉ có ông mới hội đủ nhiều yếu tố làm thị giả cho Phật.
A Nan nghe thế, sợ không kham nổi trách nhiệm nên từ chối, nhưng được Trưởng lão Xá Lợi Phất và Ma ha Mục Kiền Liên khuyên mãi, ngài mới nhận lời. Vì e ngại sự tỵ hiềm có thể xảy ra trong chúng, nên ngài yêu cầu Tôn giả Mục Kiền Liên trình lên Phật 5 thỉnh nguyện:
1/ Không mặc áo Phật cho dù cũ hay mới.
2/ Không đi với Phật khi có Phật tử thỉnh Phật về nhà cúng dường mà không thỉnh ngài.
3/ Khi Phật tiếp khách, ngài có thể ra ngoài nếu sự hiện diện của thị giả là không cần thiết.
4/ Không ăn thức ăn thừa của Phật.
5/ Được quyền sắp xếp khách đến yết kiến Phật.
Năm thỉnh nguyện được trình lên, Phật hoan hỷ chấp thuận và hết lòng khen ngợi A Nan là người thông minh, tế nhị, thuần hậu, vui vẻ.
Khi vua Tịnh Phạn băng hà, Phật về thành Ca Tỳ La Vệ lo việc đại tang và sau khi sắp xếp cho người em họ, Ma Ha Nam lên làm vua, đức Phật đến tạm trú tại rừng Ni Câu Ðà. Mọi việc ở hoàng cung đã chu tất, di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề dẫn 500 thể nữ thuộc dòng họ Thích bái yết Phật, xin được xuất gia. Nhưng đức Phật không chấp thuận, vì giới nữ nặng về tình cảm, nhẹ ý chí, có thể gây phiền hà rắc rối cho giáo đoàn sau này.
Sau đó đức Phật về đến tinh xá, di mẫu và 500 thể nữ tự ý xuống tóc, khoác áo ca sa để thể hiện lòng chí thành xuất gia của mình. Họ vượt đường xa ngàn dặm đến cầu thỉnh Phật chấp thuận tâm nguyện xuất gia. Nhưng đức Phật vẫn không đồng ý. Tôn giả A Nan vô cùng thương cảm nên khẩn khoản xin Phật cho nữ giới được xuất gia. Sau đó, đức Phật chấp thuận lời thỉnh cầu của A Nan, nhưng buộc ni giới phải tuân hành Bát kỉnh pháp. Bà Ma ha Ba Xà Ba Ðề vô cùng hân hoan và xin triệt để tuân hành lời Phật dạy.
Trong một đêm nằm mộng, Tôn giả A Nan thấy 7 điềm quái lạ nên ngài cảm thấy lo sợ hoang mang. Sáng sớm thức dậy, A Nan đến đảnh lễ Phật và kể lại 7 điềm mộng, cầu xin được sự chỉ dạy. Ngài kể rằng:
1/ Con thấy khắp nơi sông hồ biển cả đều bị lửa dữ rực cháy khô cạn.
2/ Con thấy mặt trời rơi rụng, bầu trời tối đen, không có một ánh sao; khi đó có đầu con vượn lao lên chín tầng mây.
3/ Con thấy các tỳ kheo không tuân giữ giới luật, họ treo áo cà sa trên cành cây.
4/ Con thấy các tỳ kheo bị cảnh chông gai lao lý khốn khổ, pháp y tơi bời.
5/ Con thấy cây chiên đàn xanh tươi bị các đàn heo rừng đến bới gốc, tróc rễ.
6/ Con thấy voi con không nghe lời voi mẹ, chạy khắp nơi, lạc vào chốn đồng khô cỏ cháy, chết đói ngổn ngang.
7/ Con thấy sư tử chết, các loài côn trùng không dám đến gần, nhưng dòi từ trong ruột sư tử bò ra lúc nhúc, rúc tỉa thịt xuơng.
Khi nghe A Nan kể như thế, biết đó là điềm chẳng lành, đức Phật giải thích:
Này A Nan! Ðã là mộng nên làm gì có thực, tất cả đều do tâm thức biến hiện. Nhưng giữa cái có và cái không vốn không tách biệt nhau, bởi thế giấc mộng của ông là điềm báo trước giáo pháp của Như Lai sau này.
Này A Nan! Ðiềm thứ nhất: Lửa cháy thiêu đốt, sông biển khô cạn là biểu hiện tương lai các tỳ kheo được hưởng đầy đủ mọi sự cúng dường nhưng lại không giữ giới pháp thanh tịnh, khởi xướng đấu tranh gây gỗ.
Ðiềm thứ hai: Sau khi Như Lai vào niết bàn giống như mặt trời khuất dạng, để chánh pháp trường tồn, tăng chúng sẽ yêu cầu ông kiết tập kinh tạng.
Ðiềm thứ ba: Trong tương lai sẽ có hạng tỳ kheo chỉ chuyên nói lý thuyết suông, không lo tu hành.
Ðiềm thứ tư: Trong tương lai sẽ có hạng tỳ kheo không lo tu giới, định, tuệ, nhiễm theo thế tục, lấy vợ có con đùm đề.
Ðiềm thứ năm: Trong tương lai sẽ có hạng Tỳ kheo chỉ chuyên buôn Phật, bán Thánh, đem chánh pháp làm phương tiện đổi chác, mong cầu lợi dưỡng.
Ðiềm thứ sáu: Trong tương lai sẽ có hạng tỳ kheo trẻ tuổi, không chịu học tập theo lời dạy dỗ của sư trưởng, không tin nhân quả tội phước, nên chết bị đọa vào địa ngục.
Điềm thứ bảy: Trong tương lai chính đệ tử Phật phá hoại giáo pháp của Phật, chứ ngoại đạo không đủ sức phá hoại chánh pháp của Như Lai.
Chúng ta thấy đó, cuộc đời hư thật thật hư chẳng biết đâu mà tin hay nghi. Tuy 7 điểm tôn giả A Nan thấy trong giấc mộng là giả huyễn, nhưng qua thời gian chúng ta thấy những điều ấy đã thành hiện thực. Điều này chúng ta nên có thời gian suy nghĩ về bổn phận làm người đệ tử Phật của mình.
10- La Hầu La
Sau khi thái tử Tất Đạt Đa bỏ ngôi vị xuất gia thì vua Tịnh Phạn rất mực cưng chiều La Hầu La. Vì ngài là cháu của hai dòng vương tộc, tương lai thừa kế ngai vàng nên cả hoàng thân quốc thích ai cũng quý trọng. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho ngài trở nên nghịch ngợm.
Theo truyền thuyết thì La Hầu La ở trong bụng mẹ 6 năm, nên tên của ngài có nghĩa là Phú Chướng. Vì sao ngài ở trong bụng mẹ lâu như thế? Vì nhân duyên nhiều đời trước, ngài thích bịt miệng hang chuột làm vui nên đời này mắc quả báo như thế.
Trong chuyến đức Phật về thăm hoàng cung, lúc ấy La Hầu La chỉ mới 7 tuổi, bà Da Du Đà La bày con mình đến xin Phật gia tài. Đức Phật nghe nói thế quay sang hỏi các vị tỳ kheo: “Này các tỳ kheo! Như Lai có hai gia tài: một gia tài đế nghiệp được xây dựng bằng mồ hôi và nước mắt, thậm chí phải đổi lấy bằng cả xương máu của lê dân bá tánh; và một gia tài thất bảo trang nghiêm, giải thoát ngoài ba cõi, tự tại giữa sinh tử, thần diệu bất khả tư nghì. Vậy Như Lai nên trao cho con mình gia tài nào?” Nhân đó, đức Phật khuyến hóa La Hầu La xuất gia và trở thành vị sa di đầu tiên trong giáo đoàn của Phật.
Dù đã thọ giới sa di nhưng còn trẻ tuổi, La Hầu La chưa ý thức rõ việc tu của mình và thường sinh tâm ỷ lại, lấy việc trêu chọc đại chúng làm vui. Đức Phật nghe tin, đích thân đến răn dạy. Thấy đức Phật rất oai nghiêm từ xa mới đến, La Hầu La đem nước đến cho Phật rửa chân. Rửa xong, Phật chỉ nước trong chậu hỏi La Hầu La:
– Này La Hầu La! Nước này có thể uống được không?
– Bạch Thế Tôn! Không thể uống được.
– Vì sao?
– Vì nước đã bị dơ bẩn.
– Này La Hầu La! Ông cũng giống như thứ nước đó. Thời gian xuất gia làm sa di khá dài, gần 10 năm nhưng thân tâm còn ô uế, tính khí xấu xa chưa dứt trừ. Tuy sống đời xuất gia mà thân, khẩu, ý còn nhiễm mùi trần tục; lấy dối gạt, đùa nghịch làm vui thì chẳng khác gì thứ nước dơ bẩn kia, không thể uống được. Ông mang nhiều tật xấu ắt sẽ bị đọa lạc trong tương lai.
Nói xong, đức Phật bảo La Hầu La mang chậu nước dơ đổ đi, rồi mang chậu không trở về. Phật hỏi:
– Này La Hầu La! Chậu này có đựng thức ăn được không?
– Bạch Thế Tôn! Không ạ!
– Vì sao?
– Vì vết dơ bám đầy chậu.
– Này La Hầu La! Chậu dơ không đựng thức ăn được, thân dơ cũng thế thôi. Ông là một Sa di mà thân, khẩu, ý không tu tập giới, định, huệ; tâm không trong sạch, lời nói bông đùa nghịch ngợm, mất hết oai nghi như thế chẳng khác gì cái chậu dơ bẩn này. Chậu dùng không được thì giữ lại làm gì?
Nói vừa dứt lời, đức Phật lấy chân đá nhẹ vào chậu, khiến chậu lăn tròn vỡ đôi. Phật lại hỏi tiếp:
– Này La Hầu La! Ông có tiếc cái chậu không?
– Bạch Thế Tôn! Không tiếc ạ!
– Vì sao?
– Vì chậu dơ, chẳng có gì phải tiếc.
– Này La Hầu La! Vì chậu dơ nên ông không tiếc khi nó vỡ vụn. Giống như vậy, con người mà không biết kính thương con người, thậm chí vui thích trên sự buồn khổ của người khác. Mang danh xuất gia, ăn nói không thật thà, đi đứng không chững chạc, phỉnh gạt người khác, ai mà thương mến ông cho được?
Nói đoạn, đức Phật dạy La Hầu La phải nên cẩn thận lời nói và hành động của mình. Cũng như con voi chiến lâm trận, nếu không biết bảo vệ cái vòi của nó thì dễ bị toi mạng. Bởi thế con người phải biết giữ gìn lời nói. Nếu lỡ nói sai thì phải biết hổ thẹn. Người không biết hổ thẹn thì chẳng có việc xấu nào mà không dám làm.
Nghe đức Phật răn dạy như vậy, La Hầu La tỉnh ngộ và phát nguyện sửa đổi oai nghi, bỏ lời dối gạt, âm thầm lập nguyện, tu hành tinh tấn. Lúc 20 tuổi, La Hầu La chứng Thánh quả và được nhiều người kính trọng, vì thế ngài được tín chúng cúng dường nhiều nhất.
Một hôm có vị trưởng giả cúng dường cho La Hầu La một tinh xá. Trên đường du hóa độ sinh, các Tỳ kheo cũng thường ghé lại tinh xá của ngài. Lâu ngày, ỷ vào công lao phục dịch, ông trưởng giả lấn lướt cả quyền trú trì của La Hầu La. Đức Phật biết chuyện, khuyến dạy: “Trong giáo pháp ta, việc của tăng đoàn, hàng tín chúng không được can dự vào; phòng ốc, tinh xá của tăng đoàn, cư sĩ Phật tử không có quyền quản lý. Dù bất cứ vật gì kể cả tinh xá, sau khi đã dâng cúng thì quyền sở hữu thuộc về chư tăng.”
Chúng ta thấy ngày nay có nhiều chuyện nhiễu nhương. Người xuất gia thì thích lo việc thế tục, còn người thế tục thì ưa quản lý chùa chiền. Đến chùa niệm Phật rồi ghé mắt xem ông sư đang làm gì? Thật là cảnh nhiễu nhương.
Các vị biết, ông trưởng giả kia đâu phải dừng lại ngang đó. Nhân khi La Hầu La về tinh xá Kỳ Hoàn, ông đem tinh xá ấy cúng dường lại cho vị tỳ kheo khác. Quả thật người không hiểu Phật pháp mà đứng ra chủ trì Phật sự là một điều rất khó. Nhân đó, đức Phật triệu tập tăng chúng và dạy rằng: “Những vật đã đem bố thí cho người, tín thí đem tặng lại cho các ông, các ông không được tiếp nhận. Nói thế không phải ta thiên vị, bênh vực quyền lợi cho La Hầu La, mà phép tắc trong giáo đoàn phải được quy định rõ để tránh các rắc rối về sau.”
Tôn giả La Hầu La từ khi bị Phật quở trách, tỉnh ngộ và lập đại nguyện tu hành. Hạnh nguyện của ngài như thế nào không ai biết được. Có lần đức Phật khen rằng: “Mật hạnh của La Hầu La chỉ có Như lai mới biết được mà thôi”. Vì thế, ngài được tôn xưng là bậc đại đệ tử Mật hạnh đệ nhất.
Theo truyền ký thì bà Da Du Ðà La cùng tuổi với Phật, nhưng niết bàn năm 78 tuổi như thế là trước Phật 2 năm. Còn La Hầu La niết bàn lúc không quá 50 tuổi, tức trước cả Phật và bà Da Du Ðà La.
Thích Huyền Châu.