Nguyên nhân đức Phật chế y công đức (Y Ca-thi-na) và cách thọ trì

Tác giả: Hòa thượng Thích Phước Sơn

1- Nguyên nhân đức Phật chế y công đức ( Y Ca-thi-na)

Sau 3 tháng An cư, một số Tỳ-kheo từ các nơi về Xá-vệ thăm viếng đức Thế Tôn. Trên đường đi, họ gặp phải những côn mưa dầm, đường sá lầy lội, ba y bị ướt sũng, nên khi đến nơi, tất cả đều ẩm ướt và mệt mỏi. Sau khi trao đổi những lời thăm hỏi, đức Phật biết rõ tình cảnh vất vả của họ, Ngài bèn chế định, từ nay trở đi các Tỳ-kheọ được phép thọ y Ca-thi-na sau ngày Tự tứ. Các bộ luật đều nhất trí điểm này, riêng luật Ngũ phần còn nói rõ trường hợp Trưởng lão A-na-luật, vì tuổi già sức yếu, mang ba y đi đường xa, gặp trời mưa ướt nên càng mệt nhọc, do đó mà Phật cho phép các Tỳ-kheo được thọ y Ca-thi-na. Vì thọ y Ca-thi-na sẽ hưởng được một số quyền lợi đặc biệt.

2- Định nghĩa Y Ca-thi-na

Ca-thi-na hay Ca-hi-na là phiên âm từ chữ Phạn Kathina, dịch nghĩa Công đức y hay Thưởng thiện y, tức chiếc y chứa nhiều công đức, chiếc y tưởng thưởng những việc thiện. Ý nói trải qua ba tháng An cư, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đã nỗ lực tu học, gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp, nên xứng đáng được tưởng thưởng một số quyền lợi nhất định. Về hình thức, luật cho phép dùng y Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng hay An-đà-hội để làm y Ca-thi-na đều được cả.

3- Lợi ích của Y Ca-thi-na

Trong thời gian thọ trì y Ca-thi-na, các Tỳ-kheo được hưởng năm quyền lợi như sau:

(1) Súc trường y: được cất giữ vải, y dư, quá 10 ngày mà không phạm tội.

(2) Ly y túc: được rời y ngủ một chỗ khác (ngày thường Phật chế Tỳ-kheo phải đem theo ba y và bát bên mình như chim có đôi cánh, không được lìa y ngủ một nơi khác).

(3) Biệt chúng thực: được ăn riêng chúng (bình thường Phật không cho phép các Tỳ-kheo từ bốn người trở lên tách ra khỏi chúng, đi khất thực về ăn riêng).

(4) Triển chuyển thực: được phép thọ trai nhiều lần, tại nhiều chỗ trước giờ ngọ.

(5) Trước hoặc sau bữa ăn tách riêng đi vào xóm mà không cần báo cho các Tỳ-kheo khác biết. (từ lúc bình minh đến khi ăn là trước bữa ăn, từ khi ăn xong đến bình minh hôm sau là sau bữa ăn. Phật chế định trước giờ ăn các Tỳ-kheo không được đi vào làng mà không báo cho những người khác biết).

Y công đức (y ca-thi-na), ảnh St

4- Thời gian hiệu lực của Y Ca-thi-na

a) Thời gian tác pháp Yết-ma để thọ trì:

Thời gian này kể từ 16 tháng 7 âm lịch đến 15 tháng 8 âm lịch. Nếu y định làm Ca-thi-na đã có sẵn, chúng Tăng nên tác pháp thọ trì ngay trong ngày 16 tháng 7. Nếu chưa có, Tăng chúng có thể chờ đợi thí chủ cúng dường cho đến hạn chót 15 tháng 8. Trong khoảng thời gian này, ngày nào nhận được y thì tác pháp thọ trì vào ngày ấy.

b) Thời gian hiệu lực của y:

Theo luật Tứ phần hiệu lực của y Ca-thi-na kể từ ngày 16 tháng 7 đến 15 tháng 12 âm lịch, tức thời gian 5 tháng. Nhưng theo luật Ngũ phần, hiệu lực ấy chỉ có 4 tháng, tức đến 15 tháng 11 âm lịch là hạn chót.[1]

c) Thời gian may y:

Nếu không có y mà có vải định làm y Ca-hi-na thì vải ấy phải may xong và thọ trì trong một ngày. Nếu một người may không kịp thì Tăng sai nhiều người hợp sức cùng may.

Ở đây cũng cần nói thêm, luật định mỗi năm vào tháng Ca-đề tức từ 16/7 âm lịch đến 15/8 âm lịch, các Tỳ-kheo được quyền sắm thêm y mà không phạm luật. Nhưng, nếu có thọ trì y Ca-thi-na thì thời gian pháp định này kéo dài đến 5 tháng, tức từ 16/7 đến 15/12 âm lịch. Ngoài thời gian ấy, Tỳ-kheo có đủ 3 y không được sắm thêm y khác, nếu thí chủ có cúng dường y mới thì trong vòng 10 ngày phải đem tịnh thí (đem cho người khác tượng trưng, tức hợp thức hóa quyền sở hữu của mình).

5- Người giữ y Ca-thi-na cần có 5 đức tính

Về giá trị tinh thần của y thì mọi Tỳ-kheo đều được quyền bình đẳng hưởng thụ như nhau, nhưng việc bảo quản chỉ giao cho một Tỳ-kheo có đủ 5 đức tính như sau:

(1) Không thiên vị (không yêu riêng ai).

(2) Không giận dữ.

(3) Không si mê.

(4) Không sợ hãi.

(5) Biết thể thức thọ Ca-thi-na.

Năm đức tính này tương tự như năm đức tính của người thọ Tự tứ, chỉ hơi khác ở điểm thứ năm là người thọ Tự tứ thì biết ai Tự tứ rồi, ai chưa Tự tứ.

Sau khi Tăng Yết-ma sai một Tỳ-kheo có năm đức tính kể trên giữ y công đức, vị này có bổn phận đem y cất ở một chỗ cao ráo, rắc hoa lên trên cúng dường và bảo quản cẩn thận cho đến 15/12 âm lịch. Đến ngày cuối, hoặc Tăng tác pháp tuyên bố chấm dứt hiệu lực của y, hoặc không tác pháp tuyên bố thì đương nhiên y cũng hết hiệu lực. Theo tinh thần chung của các bộ luật thì sau khi y hết hiệu lực, thầy Tỳ-kheo lâu nay có trách nhiệm bảo quản mặc nhiên được sử dụng y ấy. Nhưng, theo luật Thiện Kiến, sau khi y hết hiệu lực, Tăng sẽ đem cho Tỳ-kheo nào mặc y rách. Nếu nhiều Tỳ-kheo mặc y rách thì cho Tỳ-kheo già nhất. Nếu không có người già thì cho người nhiều tuổi hạ chứ không được cho người thiếu phẩm chất.

6- Những người không được hưởng quyền lợi của y Ca-thi-na

a) Năm trường hợp theo luật Thập tụng:

(1) Người không có tuổi hạ (vì khi nhập hạ, vị ấy là Sa-di, đến giữa mùa hạ mới thọ giới Cụ túc, nên chưa đủ tuổi hạ).

(2) Người phá An cư (An cư không đúng quy định).

(3) Người hậu An cư (theo truyền thống Bắc truyền thọ An cư từ ngày 17/4 đến 16/5 âm lịch là hậu an cư. Theo truyền thống Nam Tông thọ An cư từ ngày 17/6 đến 16/7 âm lịch là hậu an cư).

(4) Người bị tẫn (vì phạm giới luật nên Tăng Yết-ma kết tội. Tẫn có ba thứ:

– Diệt tẫn: vĩnh viễn cho ra khỏi Tăng đồn;

– Khu tẫn: mời ra khỏi Tăng đoàn một khoảng thời gian nhất định;

– Mặc tẫn: Tăng chúng không giao thiệp với người phạm tội).

(5) Người biệt trú (do phạm giới; chư Tăng cho ở riêng tại một chỗ).

b) Mười một trường hợp theo Hành Sự Sao Tư Trì Ký *

(1) Người vắng mặt lúc Yết-ma thọ trì y Ca-thi-na.

(2) Người có nạn, tức bị chính quyền hay giặc bắt đi.

(3) Người không có đại y, tức không có y Tăng-già-lê.

(4) Người thuộc trú xứ khác.

(5) Người trung và hậu an cư.

(6) Người phá hạ (phá An cư).

(7) Người không đồng kiết giới, tức Tỳ-kheo thuộc trú xứ khác cùng sinh hoạt thuyết giới chung mà không cùng chia sẻ quyền lợi, nên không được hưởng các quyền lợi về y vật.

(8) Người phạm tội Tăng tàn.

(9) Người đang hành biệt trú.

(10) Người học hối, tức Tỳ-kheo phạm Ba-la-di (tội nặng) mà thành thật phát lồ, khẩn thiết xin được tiếp tục tu học thì Tăng không diệt tẫn mà cho thọ trì 35 pháp để sám hối suốt đời.

(11) Người bị tẫn.

Tóm lại, luật Tứ Phần và Thập Tụng không chấp nhận người hậu An cư hưởng quyền lợi của y Ca-thi-na, nhưng luật Ma-ha-tăng-kỳ thì chấp nhận việc này. Luật này nói: Nếu cả chúng đều hậu An cư, thì đến ngày 16 tháng 8 vẫn được thọ y công đức, nhưng thời bạn chót hết hiệu lực cũng vẫn là 15 tháng 12 âm lịch. [2]

7- Y Ca-thi-na mất hiệu lực trong các trường hợp

a) Chín trường hợp theo luật Nam Tông[3]

(1) Cho người khác.

(2) Bị trộm cướp lấy mất.

(3) Bạn thân lấy đi.

(4) Bị thối hóa, phạm giới tội.

(5) Hoàn tục.

(6) Viên tịch.

(7) Biến đổi giới tính.

(8) Hòa hợp cùng xả (Yết-ma tuyên bố chấm dứt hiệu lực của y)

(9) Bị hư rách.

b) Tám trường hợp theo luật Ngũ phần[4]

(1) Thời cánh: thời gian hiệu lực của y chấm dứt, tức 15/11 âm lịch.

(2) Thất y: y bị mất.

(3) Văn thất: khi ra ngồi đại giới mà nghe tin y đã bị mất.

(4) Viễn khứ: rời khỏi cương giới di chuyển đến 1 nơi khác.

(5) Vọng đoạn: rời khỏi cương giới tìm y, nhưng đến đó không có y.

(6) Y xuất giới: vì 1 lý do nào đó mà phải đem y ra ngồi cương giới.

(7) Nhân xuất giới: đang ở ngồi cương giới mà hay tin Tăng đã tuyên bố chấm dứt hiệu lực của y.

(8) Bạch nhị Yết-ma xả: Tăng tác Yết-ma tuyên bố chấm dứt hiệu lực của y.

8- Trường hợp không biết cách thọ y Ca-thi-na

Nếu tại một trú xứ có từ 5 Tỳ-kheo trở lên mà không một ai biết tác pháp thọ y công đức thì các Tỳ-kheo này có thể đi đến một trú xứ khác thỉnh một Tỳ-kheo thông luật về tác pháp Yết-ma để thọ trì. Vị Tỳ-kheo khách này tuy được quyền tác pháp Yết-ma, nhưng không có quyền hưởng lợi ích của y công đức ấy. Quyền lợi này hồn tồn thuộc về các Tỳ-kheo tại trú xứ đó mà thôi.

Tóm lại, trên đây đã trình bày về nguyên nhân, ý nghĩa, giá trị hiệu lực… và những gì liên quan đến y Ca-thi-na theo cả hai truyền thống Bắc và Nam tông. Nhưng ngày nay Nam tông vẫn còngiữ được truyền thống thọ trì y Ca-thi-na này một cách tốt đẹp, mà Bắc phương thì hầu như rất ít để ý đến, hoặc đã thất truyền từ lâu[5]

*Chú thích:

[1] Nếu tiền An cư được thọ y Ca-thi-na từ ngày 16/7 → 15/11 âm lịch thì xả. Nếu hậu An cư thì thọ y Ca-thi-na ngày 16/8 và xả 15/12 âm lịch (luật Ngũ Phần. Đ.22, tr.153c)

[2] Luật Ngũ Phần cũng chấp nhận người hậu An cư được hưởng công đức của y Ca-thi-na, nhưng chỉ có 4 tháng. (Đ.22, tr.153c)

[3] Gồm chung cả trường hợp y hết hiệu lực và trường hợp người không được hưởng quyền lợi của y

[4] Đ:22, tr. 153c

[5] Theo Pháp sư Thánh Nghiêm, Các chi tiết và thể thức thọ trì y Ca-thi-na xin xem Yết-ma Yếu Chỉ.

(Trích nguồn: HT: Thích Phước Sơn, Luật Học Tinh Yếu, VI. Tạp sự, Nxb Phương Đông, Tp. HCM, 2010, tr. 113.)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *