Thiền và hoa đạo

Tác giả:

Hoa đã xuất hiện hàng triệu năm trước khi có loài người, tô điểm cho cảnh vật với muôn màu sắc. Và cũng từ lâu hoa có mặt trong cuộc sống loài người: hoa ngoài đồng nội, hoa chưng trên bàn, hoa dâng cúng nơi bàn thờ, hoa ngoài nghĩa trang khi ta thăm viếng người quá cố … Khi vui lúc buồn, khi yêu lúc giận, ăn uống tiệc tùng, lễ lạc tiếp đón, lúc sống cũng như khi qua đời, chúng ta lúc nào cũng thấy mình gắn liền với các đóa hoa tươi thắm. 

Tuy vậy, đã biết bao lần chúng ta hững hờ quên lãng, không nhìn thấy vẻ rực rỡ hay sự tinh khiết của đóa hoa chưng trong nhà hay vừa hé nở ở ngoài vườn. Cuộc sống quanh ta chứa rất nhiều sự kỳ diệu: một đoá hoa hồng trong ánh sáng ban mai rực rỡ, bãi lau sậy im lặng soi mình trên mặt nước hồ thu, những bong tuyết trắng xoá nhẹ nhàng phủ lên cảnh vật. Và nếu chúng ta có tí thì giờ ngắm nhìn thì ta có thể hạ bút viết bài thơ Hài Cú như một vị thiền sư trong ngày tuyết đổ ngập trời: 

“Hàng vạn hạt tuyết rơi

Nhưng mỗi hạt tuyết

Ðều có nơi an trú.”

(Trúc Thiên dịch) 

Hàng muôn triệu cánh hoa với dáng vóc, màu sắc, hương thơm, thời gian hiện hữu khác nhau đã xuất hiện nơi chốn đồng bằng, trong rừng rậm, ven sông, trên những cành cây cao hay nơi mặt ao hồ. Mỗi cành hoa hiện hữu tự nó đầy đủ, thoải mái, an nhiên, tự tại, tỏa ánh sáng những màu sắc kỳ diệu. Ðó là Pháp Giới, thế giới chân thật mà kinh Hoa Nghiêm đã mô tả: hàng muôn triệu thứ hiện hữu trong vũ trụ bao la mà mỗi loại, dù nhỏ như hạt nguyên tử hay lớn hơn như giải Ngân Hà gồm triệu triệu ngôi sao đều sinh động, chuyển biến qua các giai đoạn sinh (nhiều thứ hợp lại thành ra một vật), trụ (tồn tại và phát triển), dị, (chuyển biến, hư hoại), rồi cuối cùng đi đến diệt (tan rả) để rồi kết hợp lại mà thành vật khác, mãi mãi không ngừng. Muôn triệu thứ cùng hiện hữu bên nhau như một chiếc lưới vĩ đại mà mỗi thứ là một viên ngọc chói sáng lấp lánh, phản chiếu ánh sáng và hình ảnh của tất cả viên ngọc khác. Muôn triệu thứ trong vũ trụ luôn luôn ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, phản chiếu lẫn nhau, trộn lẫn vào nhau mà đồng thời vẫn riêng biệt, vẫn an nhiên tự tại, vẫn hiện hữu tràn đầy riêng biệt giữa muôn sự ồn ào, náo nhiệt, chuyển biến, đổi thay mà kinh Hoa Nghiêm gọi là sự vô ngại Pháp Giới. 

I- Lịch Sử Chưng Hoa 

Nhân loại từ lâu đã dùng hoa trong các cuộc lễ lạc để tăng phần long trọng. Trong Phật giáo, lịch sử chưng hoa khởi đầu bởi các vị Thánh Tăng. Những bậc đệ tử của đức Phật, khi nhìn thấy những cánh hoa rơi rụng trong cơn bão tố, động lòng trắc ẩn, đi góp nhặt chúng lại và bỏ vào chậu nước để hoa sống được lâu hơn. Sau đó, các vị tăng sĩ thường dâng hoa cúng Phật vào các lễ tiết vì hoa vốn tinh khiết, đẹp đẽ, trong sáng, tự tại, rực rỡ như tâm của những người giác ngộ. 

“Ðạo vốn không nhan sắc

Mà ngày thêm gấm hoa

Trong ba ngàn cõi ấy

Ðâu chẳng phải là nhà”.

Thiền Sư Viên Chiếu

(Thiền sư Nhất Hạnh dịch).

Thật ra, dâng hoa cúng dường đã xảy ra ngay khi đức Phật còn tại thế. Ðức Phật nhận một cánh hoa dâng cho ngài và đưa lên trước mặt đại chúng. Mọi người đều im lặng duy chỉ có Ngài Ca Diếp, vị đại đệ tử của đức Phật mỉm cười. Ðức Phật thấy rõ tâm ngài Ca Diếp chỉ tràn đầy niềm thanh tịnh, an vui, đầy tình thương yêu và sự hiểu biết chân thật, nên ngài xác nhận cái thấy biết của ngài Ca Diếp: “Ta có pháp môn vi diệu không thể dùng lời mà diễn tả được. Nay ta trao cho ông Ca Diếp”. Cái vi diệu mà đức Phật trao cho ngài Ca Diếp vốn đã sẵn có nơi ông và nơi mỗi chúng ta và sự tích nói trên được gọi là “Niêm hoa vi tiếu”: Ðức Phật đưa một cành hoa lên và ông Ca Diếp mỉm cười. 

Các chùa chiền ở Việt Nam, Trung Hoa, Ðại Hàn, Nhật Bản… đã có tập quán chưng hoa trên bàn Phật cả ngàn năm nay. Nghệ thuật chưng hoa và chế tạo các bình hoa phát triển cao độ vào thời kỳ nhà Ðường và nhà Tống ở Trung Hoa. Sau đó, người Mông Cổ chiếm nước này và lập nên nhà Nguyên. Nhiều hoa trái của nền văn minh Trung Hoa bị tiêu diệt tại nước này nhưng được bảo tồn và phát triển tại Nhật Bản. 

Vào thế kỷ thứ bảy, Thánh Ðức Thái Tử, nhiếp chánh cho Suy Cổ Thiên Hoàng, cử một phái bộ ngoại giao Nhật Bản sang Trung Hoa. Trưởng phái bộ ngoại giao này là Ono-no Komoto đến Trung Hoa học được rất nhiều kiến thức về đồ sành, đồ sứ, đồ đồng và các bộ môn nghệ thuật cùng Thiền (Zen) Phật giáo. Thiền Phật giáo sau này được người dân Nhật đón tiếp nồng hậu và phát triển nhanh chóng nhờ các vị đại sư Thiền tông Trung Hoa đến Nhật bản giảng dạy và tổ chức tu tập, sau đó được nhiều thiền sư Nhật Bản đã tô điểm thêm cho hợp với truyền thống địa phương. 

Người dân Nhật vốn ưa thích thiên nhiên, đắm mình trong sự hòa hợp giữa con người và vũ trụ. Phật Giáo, qua giáo lý về sự đồng nhất giữa bản thể vũ trụ và tự tánh con người (Phật tánh), nhất là kinh nghiệm từ sự tu tập của Thiền Tông giúp họ trực tiếp sống với sự mầu nhiệm của Phật tánh, của tâm giải thoát với niềm an vui trong sáng bao la vốn có sẵn nơi mỗi chúng ta.

II- Ðoá Hoa Mầu Nhiệm

Mỗi con người là một đóa hoa có hương thơm, màu sắc, dáng vóc, tâm tư, ước muốn, nhận biết riêng biệt nhưng luôn hòa mình với hàng triệu triệu đời sống khác trên quả đất nàỵ Thế giới rộng lớn chuyển động như một bản hòa tấu với những vận chuyển, sản xuất, tiêu thụ qua muôn ngàn hình thái như xe cộ, nhà cửa, ăn uống, nghỉ ngơi, du lịch, chiến tranh, xây dựng, tàn phá, thương yêu, giết chóc … Không một lúc nào trên quả đất này không có hàng triệu người đang làm việc, ăn uống, nghỉ ngơi, đọc sách, phá hoại hay xây dựng. Nếu nhìn quả đất từ xa khi nửa phần quả đất từ từ chìm vào bóng tối thì ánh đèn trong nhà và ngoài đường tỏa sáng hết lớp này đến lớp khác theo sự vần xoay của mặt địa cầu hướng về phương đông, cảnh vật lại tràn ngập trong ánh sáng ban mai, sự sống chổi dậy ồn ào náo nhiệt. Và cùng với muôn loài đón mừng bình minh, hàng triệu triệu đóa hoa đón nhận nguồn sống từ ánh thái dương. 

Chúng ta thích ngắm đóa hoa vì nó tỏa ra sự mầu nhiệu của dòng sống: Mọi đóa hoa tự nó vốn thanh tịnh, rỗng lặng, tỏa chiếu, trong sáng và tươi mát. Dù đóa hoa ấy mọc riêng rẽ trên cánh đồng cỏ xanh, trong một khu rừng rậm rạp hay trên một cánh đồng hoa rực rỡ. Trong đám nhân loại hàng tỷ người hiện nay, đời sống của mỗi chúng ta cũng vậy: tự nó là trong sáng, an vui, rộng lớn, thoải mái, tươi mát, tràn đầy tình thương yêu và sự hiểu biết chân thật, tràn đầy nguồn hạnh phúc trong lành. Niềm an vui đó tự nó hiện hữu, không có bắt đầu và tận cùng như vũ trụ bao la quanh ta. Như một đóa tươi thắm trong một khóm hoa dày đặc, mỗi người chúng ta hiện hữu tràn đầy, riêng biệt, tự tại dù đang hòa lẫn với muôn ngàn đời sống khác trong một xã hội luôn luôn biến đổi. 

Chưng một bình hoa với tâm tĩnh lặng, với lòng an vui giúp cho chúng ta tiếp xúc được, sống với sự mầu nhiệm của cuộc đời. Sự mầu nhiệm của cuộc đời chính là sự mầu nhiệm nơi tâm ta: Một thế giới rộng lớn, an vui, trong sáng, rực rỡ kỳ diệu, nồng ấm và hạnh phúc vô cùng: 

“Một đóa hoa mai vừa nở

Cả thế giới bừng dậy

Một tiếng nhạc ngân lên

Rung chuyển cõi ba ngàn

Một cánh hạc vỗ nhẹ

Kết hợp không thời gian

Nơi khuôn mặt nghìn đời

Nụ cười thoáng hiện

Một thân thể nhỏ bé

Tràn ngập không thời gian.” 

Sự mầu nhiệm an vui, rộng lớn, trong sáng vốn luôn luôn hiện hữu nơi mỗi chúng ta, đã giúp cho ta buông xả cái tôi nhỏ bé để trở thành một với vũ trụ bao la, trầm lặng, bất biến, nhưng đồng thời luôn luôn chuyển động, muôn màu muôn sắc, linh động và thay đổi. Phật giáo chú trọng đến niềm an vui nội tâm. Khi tâm an bình thì tự nó thành trong sáng như tấm gương rộng lớn phản chiếu mọi hoa lá, cỏ cây, người và vật. Tâm trong sáng, an vui đó được gọi là đất sạch (Tịnh Ðộ). Chốn tịnh độ ấy được mô tả đầy cả hương hoa rực rỡ, chim thú kỳ diệu, cảnh vật trang nghiêm. Các bộ kinh lớn của Phật giáo như Diệu Pháp Liên Hoa, Hoa Nghiêm cũng lấy tên loài hoa quý như hoa sen (Liên Hoa) và Tràng Hoa Ðẹp (Hoa Nghiêm) để chỉ cho cái tâm mầu nhiệm, an vui, rộng lớn, thanh tịnh có sẵn nơi mỗi chúng ta.

III- Dâng Hoa Cúng Phật

Phật giáo ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của dân Nhật Bản. Nhiều chùa chiền được xây dựng và trở thành các trung tâm tôn giáo và nghệ thuật. Những cuộc chiến tranh và nội loạn làm mai một các ngành nghệ thuật ở Trung Hoa. Các ngành nghệ thuật ấy được tiếp đón, nuôi dưỡng và phát triển ở Nhật Bản, trong đó có nghệ thuật chưng hoa.

Trong các cuộc lễ ở chùa, người ta thường dâng hoa cúng Phật. Ban đầu bình hoa được cắm theo nguyên tắc cân xứng: Nhiều cành hoa có độ dài bằng nhau, cùng màu sắc và ở vị trí đối xứng nhau… Một nhánh hoa màu vàng bên phải thì có một nhánh hoa màu vàng bên trái, một nhánh hoa màu đỏ phía trước thì có một nhánh hoa màu đỏ phía sau. Cách cắm hoa này hiện vẫn còn thông dụng tại nhiều nơi. 

Sau đó, các vị thầy chưng hoa nhận thấy lối chưng hoa đối xứng như thế không phản ảnh vẻ đẹp tự nhiên. Nét đẹp của vạn vật biểu lộ một cách tự nhiên và không theo một sự cân xứng giả tạo. Từ đó nghệ thuật chưng hoa tiến một bước dài để trở thành Hoa Ðạo cùng với thiền Phật giáo, Trà Ðạo, Võ Ðạo tạo thành nền tảng vững chắc của nền văn hoá Nhật Bản. 

Từ các cuộc lễ theo truyền thống dâng hoa cúng Phật, nghệ thuật chưng hoa dần dần phát triển và trở thành một bộ môn nghệ thuật của giới quý tộc rồi lan truyền đến dân gian. Cuộc triển lãm các bình hoa để công chúng thưởng ngoạn được tổ chức đầu tiên vào năm 1425. Từ năm 1445, các cuộc chưng bày được tổ chức có quy củ hơn để những người trong ngành chuyên môn này có thể học hỏi lẫn nhau. 

Vào lúc bấy giờ, cách dạy chưng hoa có tính cách cha truyền con nối, mỗi dòng họ giữ bí mật về nguyên tắc và kinh nghiệm trong ngành, cách giữ hoa lâu tàn, sự phối hợp màu sắc. Họ chỉ được truyền lại cho con cái và một số học trò thân tín. Sự thay đổi nói trên, tổ chức triển lãm quy mô các bình hoa thuộc nhiều trường phái khác nhau, đã đem lại sinh khí cho Hoa Ðạo. Từ đó thêm nhiều trường phái chưng hoa được khai sinh và tiếp tục phát triển. Vào giữa thế kỷ 17, đã có đến hơn một trăm trường phái chưng hoa. Ðến nay con số này lên đến cả ngàn. Tuy vậy, tất cả trường phái trên đều quy về một trong hai phái chính: Trường phái Hình Thức và trường phái Tự Nhiên. 

Trường phái Hình Thức chú trọng nhiều đến vẻ đẹp của các đường nét sáng tạo. Họ chú trọng đến các nguyên tắc về sự phối hợp lý tưởng các đường nét như trong các bức tranh cổ vẽ núi đồi, cây cảnh, dòng sông, đường mòn lên dốc núi, ao hồ cùng các đám mây lơ lững. Trường phái tự nhiên thì ngược lại, cắm một bình hoa theo hình ảnh của những cành hoa mọc ngoài thiên nhiên, nghệ thuật sẽ làm gia tăng vẻ đẹp và sự hòa hợp của hoa lá. Trên thực tế, hầu như mọi trường phái đều xử dụng hai nguyên tắc chính trên trong các lối chưng khác nhau.

IV- Bức Tranh Xưa và Bình Hoa Ðẹp 

Khi nhìn vào một bức cổ họa, chúng ta thường thấy ở giữa là một hòn núi lớn, mây che mờ ảo (tượng trưng cho Ðạo hay cho Chân Tâm, Phật Tánh luôn luôn hiện hữu), hai bên là hai ngọn núi đông và tây. Dưới đó là một ngọn núi nhỏ hơn với đường nét rõ rệt. Bên sườn núi là một ngọn thác đổ xuống. Dưới đó là đồi, thung lũng, khu rừng nhỏ trong đó thấp thoáng là ngôi chùa của vị thiền sư hay căn lều của vị ẩn sĩ. Vùng gần nhất (cận ảnh) thường vẽ các cành lá hay các bụi hoa mọc trên phiến đá cùng các ngôi nhà rải rác phía xa và một dòng sông uốn khúc. Trường phái hình thức đã phối hợp chín nét chính nơi bức cổ họa đó như sau: 

Cách chưng hoa trên rất trang trọng và nặng về hình thức, thích hợp cho các trang thờ và các buổi lễ lạc. Chưng một bình hoa như thế đòi hỏi rất nhiều công phu cũng như khả năng của người chưng hoa. 

Nhiều trường dạy chưng hoa chú trọng nhiều đến sự giản dị, tự nhiên và tính cách sáng tạo của nghệ thuật nàỵ Các hoa lá chưng trong bình phô bày nét đẹp thiên nhiên biểu lộ trong dòng sống trôi chảy. Ðó là nét đẹp của sát na hiện hữu, của bây giờ và nơi đây trong dòng thời gian vô tận và không gian vô cùng.

Nét đẹp của bình hoa do sự phối hợp các đường nét của cành lá, các đoá hoa, dáng dấp và màu sắc của mọi cánh hoa dù nhỏ hay lớn, “quý” hay “tiện”, với những ý nghĩa mà con người gắn cho mỗi loại, cùng với sự hòa hợp màu sắc và hình dáng của bình hoa. Sự quân bình của toàn thể các yếu tố ấy cộng với nơi bình hoa được chưng bày tạo nên một cảm tưởng có sự chuyển động, có sự biến chuyển của hai cực âm dương sinh động, đổi thay đồng thời vẫn im lìm và bất động. Nét đẹp ấy tạo nên một ấn tượng và đưa đến một cảm xúc riêng biệt trong lòng người thưởng ngoạn, chẳng khác gì khi mỗi người chúng ta đọc bài thơ Hài Cú chỉ gồm vài chữ mà thấy được sự mênh mang của vũ trụ: 

“Một cành cây trụi lá

Một con quạ đậu trên cành

Chiều thu sang. 

Ba Tiêu – (Tuệ Sỹ dịch)

V- Ba Cành Chính Của Bình Hoa 

Khi chưng một bình hoa, chúng ta lựa ba cành chính và những cành phụ. Khi lựa những loại hoa hợp với sở thích, chúng ta xem độ cong của nhánh hoa diễn tả phương hướng, sức mạnh của cành, các chiếc lá và màu sắc của mỗi đóa hoa. 

Một bình hoa có được sự thăng bằng và sinh động nhờ các yếu tố hòa hợp. Trong thế giới mê vọng mọi thứ đều phân chia thành hai trạng thái đối nghịch như mạnh yếu, cao thấp, già trẻ, sống chết,… mà Ðông Phương đã dùng hai điểm Âm Dương trong hình thái cực để tượng trưng cho hai sức mạnh đối nghịch ấỵ Âm và Dương là hai sức mạnh chống đối nhau nhưng lại thu hút, hấp dẩn lẫn nhau tạo nên một trong các sức mạnh làm chuyển động bộ máy vũ trụ. 

Trong nghệ thuật chưng hoa khái niệm âm dương được chú trọng đến nhiều. Khi chưng một bình hoa con người đã thuận theo sự chuyển biến của âm (Ðất) và Dương (Trời) để bày tỏ niềm hy vọng, sự sống hướng về tương lai. 

Trong một bình hoa thường có ba cành chính là Thiên (Dương), Ðịa (Âm) và Nhân (con người), thuận theo âm Dương mà trở về với niềm an vui tự nhiên. Mỗi cành hoa có chiều cao, độ lớn, sức mạnh và hướng mọc khác nhau, luôn luôn diễn tả sự hòa hợp trong sự chuyển biến không ngừng. 

Nguyên tắc ba điểm chính ấy bắt nguồn từ giáo lý Phật Giáo nói về Tam Thân: Ba thân là Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân của chư Phật tuy ba nhưng lại là một. Pháp Thân là thân rộng lớn khắp giáp vũ trụ, không bị ngăn ngại. Báo thân là thân tướng đẹp đẽ, cực kỳ an vui. Ứng thân là thân hóa hiện thành con người sống nơi cõi thế gian nàỵ Ba Thân này vốn là một, luôn luôn hòa hợp và cùng hiện hữu nơi một vị Phật. Còn mỗi chúng sanh như chúng ta khi sống tỉnh thức thì kinh nghiệm được chúng ta vừa là con người nhỏ bé, vừa là vũ trụ bao la, vừa đang sống nơi chốn trần ai đầy não loạn mà lại vừa có thể hưởng được nguồn hạnh phúc trong sáng vô biên ngay chính trong cuộc đời nàỵ 

Nói một cách giản dị hơn, khi tâm ta ở trạng thái buông xả, thoải mái thì các ý tưởng, các cảm xúc vui buồn dần dần lắng dịu. Cái tôi (ngã) chỉ là sự tiếp nối liên tục của các ý tưởng và tâm tư cũng dần dần lắng dịu và tan biến. Khi bức tường tự ngã (cái tôi) tan biến thì ta và vũ trụ không còn bị chia cách mà trở thành cái Một bao la. Lúc đó ta trực tiếp có kinh nghiệm về Pháp Thân rộng lớn vô cùng của chính mình: tỏa chiếu trong yên tĩnh và bao trùm mọi chốn. Trong chốn không gian rộng lớn ấy tình thương yêu tràn dâng và sự hiểu biết chân thật hiển bày, đưa ta về vói nguồn hạnh phúc tràn đầỵ Nguồn an vui hạnh phúc ấy không nương tựa, không lệ thuộc vào gì cả, nó chính là con suối trong mát hiện hữu ngay từ đầu nguồn. Ðó chính là Báo Thân tự hiển lộ noi ta. Nhưng chúng ta vẫn dẫm chân trên mặt đất đầy bụi bặm này mà làm các công việc hàng ngày: nấu cơm, rửa chén, chùi nhà, làm việc, học hành, chăm sóc gia đình, phát triển nghề nghiệp. Chúng ta hiện hữu trong cuộc sống rất bình thường và giản dị này dưới nhiều hình thái khác nhau: con cái, cha mẹ, anh em, bạn bè, đàn ông, đàn bà, công tư chức … Nhưng dù trong hình tướng nào, trong Ứng Thân nào ta cũng có thể kinh nghiệm trực tiếp tánh rỗng lặng rộng lớn vô biên và niềm an lạc vô cùng. Nói một cách khác, Phật tính có trong mỗi người chúng ta. Phật tính ấy biểu lộ, bày bỏ trong trạng thái tâm linh cao vút tuyệt vời, an vui sâu thẳm qua mọi sinh hoạt tôn nghiêm hay thế tục. Ba cành hoa Thiên, Ðịa và Nhân biễu lộ sự hòa hợp tuyệt đối đó. Khi chúng ta quay về với sự tĩnh lặng bên trong khi chưng một bình hoa thì điều kỳ diệu có cơ duyên xuất hiện. 

Ba cành hoa cắm không cân xứng nơi bình hoa biểu lộ sự hợp nhất của mọi sự đối nghịch trong vũ trụ và nơi mỗi chúng ta: vừa là rỗng rang tuyệt đối mà lại vừa tràn đầy vô cùng, vừa là đầy sức sống vừa là buông xả không dính mắc, vừa là chuyển động mà lại là yên tĩnh, hay nói theo tinh thần Bát Nhã, màu sắc hòa hợp, hình dáng xinh tươi của mỗi đóa hoa, mỗi cành lá, hiện hữu rực rỡ trong cái vắng lặng bao la. 

Khi chưng một bình hoa, chúng ta tham dự vào sự sáng tạo tuyệt đối và sự hũy diệt tuyệt đối. Các cánh hoa, cành lá, bình hoa, nước nuôi hoa được sắp xếp, phối hợp để tạo thành một vẻ đẹp toàn thể, bày tỏ nguồn sống của vũ trụ nơi hoa lá mong manh. Nét đẹp của Ba Ngàn Thế Giới ngưng đọng nơi một bình hoa bé nhỏ. Một bình hoa nhỏ bé ấy là vũ trụ mênh mông. Ðồng thời khi để tâm vào sự sáng tạo ấy, ta chỉ thuận theo những nguyên tắc tự nhiên của vũ trụ chuyển biến mà sắp xếp cây cành, không còn để ý đến cái tôi (ngã) nhỏ bé của mình nữa. Các ý tưởng khen chê, ưa ghét, phê phán quấy nhiễu tâm ta hàng ngày cũng tự chúng tan biến đi. Khi ta hoàn toàn chú tâm vào việc chưng bình hoa thì cái tôi nhỏ bé với những mâu thuẩn, xung đột, khổ đau hàng ngày của nó bỗng nhiên tan biến, để ta nhập vào vũ trụ mênh mông của thể tánh, cái rỗng lặng nồng ấm bao la của dòng suối trong mát đầu nguồn. Ðó là sự hũy diệt toàn diện của tâm mê mờ để niềm an vui vô cùng (Phật tánh) tự nó xuất hiện.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *