Quan điểm ‘tánh không’ (sunyata) của ngài Long Thọ được xây dựng trên nền tảng của lý duyên khởi, Bồ tát Long Thọ giải thích:
“眾因緣生法我說即是空亦是為假名亦是中道義眾未曾有一法不從因緣生故一切法無不是空者”, (Các pháp do nhân duyên sanh, cho nên Ta nói là “không”, là giả danh, mang ý nghĩa trung đạo. Chưa từng có một pháp nào không từ nhân duyên sanh, do vậy không có một pháp nào không ý nghĩa không).
Như vậy ‘tánh không’ của ngài Long Thọ lấy duyên khởi làm luận cứ. Duyên là các mối quan hệ có điều kiện, mỗi một pháp hiện thật, đều nương vào đó mà sanh khởi. Giáo lý duyên khởi cũng là kết quả cho sự truy tìm lời giải đáp nguyên nhân tạo ra khổ đau và con đường chấm dứt khổ đau cho chúng sanh. Đức Phật đã thiền định quán chiếu và Ngài phát hiện ra được mọi sự sinh và diệt trong cuộc sống bắt nguồn từ nguyên lý duyên sinh, trong kinh Phật Tự Thuyết (Tiểu Bộ I, tr. 291), nguyên lý Duyên khởi đã được Thế Tôn tóm tắt:
“Do cái này có mặt nên cái kia có mặt.
Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt.
Do cái này sinh nên cái kia sinh.
Do cái này diệt nên cái kia diệt.”

Pháp duyên khởi này chính là chân đế của thế gian, không ai tạo ra cũng không ai có thể diệt được. Qua đó cho thấy giáo lý Duyên khởi là nền tản căn bản của giáo lý Phật giáo. Vũ trụ vạn hữu được tồn tại cũng dựa vào lý duyên khởi, tất cả pháp không rời duyên khởi mà tồn tại. Mọi sự mọi vật nhìn về thực tại, bản chất của chúng đều là sự di chuyển của một tập hợp các yếu tố tạo ra chúng cho nên tất cả các khái niệm đều căn cứ một khía cạnh, một hình thức… để nêu lên, đưa đến sự phân biệt, so sánh. Như cái bàn được hình thành và tồn tại phải nhờ vào sự kết hợp của các yếu như gỗ, đinh, sự gia công của thợ mộc,… các yếu tố này chính là duyên.
Như vậy duyên khởi là nguyên lý cho sự tồn tại của vạn sự vạn vật. Thấy duyên khởi chính là thấy được bản chất của vạn sự vạn vật, khi thấy rõ được bản chất của các pháp rồi thì đưa đến an lạc giải thoát, còn không thấy được duyên khởi thì nhận thức sai lầm về thực tại đưa đến phiền não khổ đau.
Trong kinh Ðại Duyên (Trường Bộ III), khi Tôn giả A-nan ca ngợi giáo lý Duyên khởi thâm thúy, thì Thế Tôn lại nhấn mạnh hơn:
“Này Ananda, chính vì không giác ngộ, không thâm hiểu giáo pháp Duyên khởi này mà chúng sanh hiện tại bị rối loạn như một tổ kén, rối ren như một ống chỉ, giống như cỏ munja và lau sậy babaja, không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đọa xứ, sinh tử”.
Thực chất các khái niệm đó chỉ là giả danh, nhìn từ ảo giác rời xa thực tế bản chất. Đã là giả danh của ảo giác cho nên nó không thật, chúng luôn di chuyển thay đổi cho nên chúng vô thường, vì chúng vô thường cho nên không có một cái gì gọi là ngã hay ngã sở. Ví thế nhìn từ con mắt của Phật pháp, của Duyên khởi thì các pháp chúng đều mang nghĩa không. Giống như cái nhà ăn, một số người nhìn vào là thật có sự tồn tại. Còn nhìn từ Phật pháp cũng cho nó có sự tồn tại, nhưng nó chỉ là giả danh, duyên khởi có, cái có này được bao hàm trong cái nghĩa không của duyên khởi. Người chưa hiểu duyên khởi thường hiểu nghĩa không này là chẳng có, đây là sự nhận thức sai lầm. Ở đây nghĩa chữ ‘không’ không phải là không có mà các pháp vốn có nhưng không phải thực có mà chỉ là giả có, nên ngài Long Thọ gọi là giả danh, vì chúng không có tướng cố định nên gọi các pháp là không “sunyata”.
Như vậy tánh không (sunyata) của ngài Long Thọ dựa vào nền tảng của lý thuyết duyên khởi để thành lập, gọi là Duyên khởi tánh không.
Phật học Trí Diệu, CPL ngày 12.4.2023 – Phật lịch 2566.
Chúc Tâm – Tăng sinh học viện PGVN-HCM