QUÁ TRÌNH SÁNG LẬP VÀ TRÙNG TU
Chùa Thập Tháp Di Đà là ngôi tổ đình đầu tiên của dòng thiền Lâm Tế xứ Đàng Trong, được sáng lập vào thời chúa Hiền – Nguyễn Phước Tần bởi tổ sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch. Tuy nhiên cho đến nay, niên đại sáng lập chùa vẫn còn mơ hồ chưa được xác định một cách nhất quán. Qua sự tham khảo đối chiếu nhiều sách tư liệu liên quan đến thiền sư Nguyên Thiều và chùa Thập Tháp Di Đà, ta thấy có hai nguồn tư liệu nói về năm Tổ sư sang Việt Nam sáng lập chùa Thập Tháp Di Đà như sau:
Thứ nhất: Đại Nam Nhất Thống Chí, Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên do Quốc Sử Quán – Triều Nguyễn biên soạn; Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của Thượng tọa Thích Mật Thể; Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang; Thiền Sư Việt Nam của Hòa thượng Thích Thanh Từ; Phật Quang Đại Từ Điển tập 2, trang 1228 của Phật học viện Phật Quang – Đài Loan; Lịch Sử Tổ Đình Thập Tháp của Hòa thượng Thích Viên Đạt; Bài viết: Chùa Thập Tháp của Nguyên Huệ, đăng trong Tập San Vu Lan số 33, Phật lịch 2539, v.v… cho rằng: Nhằm đời vua Lê Huyền Tôn, niên hiệu Cảnh Trị thứ 3 (Ất Tỵ – 1665), Tổ sư Nguyên Thiều sang Việt Nam, đầu tiên lập Chùa Thập Tháp tại phủ Quy Ninh. Ở Đàng Trong nhằm đời Chúa Hiền – Nguyễn Phước Tần, hiệu Thái Tông Hiếu Triết Hoàng Đế thứ 17.
Thứ hai: Chánh Truyền Nhất Chi: Từ Trung Thiên đến Trung Hoa và Trung Việt của Diệu Nghiêm thiền sư (1726-1798), phần trích dịch trong “Khánh Anh Văn Sao” của Hòa thượng Thích Khánh Anh; Phật Tổ Tâm Đăng của thiền sư Như Trí tức Hòa thượng Thích Khánh Hòa; Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam của nhiều tác giả trong Ủy Ban Khoa học Xã Hội Việt Nam; Lịch Sử Phật Giáo Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức; Phật Giáo Nam Bộ (từ thế kỷ 17 đến 1975) của Trần Hồng Liên; Chùa Thập Tháp Di Đà của Lộc Xuyên – Đặng Quí Địch; Bài viết La Pagoda Quốc Ân: Le Fondateur (Vị khai sơn chùa Quốc Ân) của Linh Mục Cadière, đăng trong tạp chí Bulletin Des Amis Du Vieux, Huế, năm 1914, v.v… cho rằng: Vào năm Đinh Tỵ (1677), thiền sư Nguyên Thiều từ Trung Hoa sang Việt Nam, trước tiên lập chùa Thập Tháp tại tỉnh Bình Định.
Tuy nhiên, sự ghi chép đầu tiên về Tổ sư Nguyên Thiều vẫn là tấm bia đá khắc bài ký – minh do Chúa Nguyễn Phước Trú ngự đề, ban cho Tổ sư nhằm vào ngày mùng 8 tháng 4 niên hiệu Bảo Thái thứ 10 (Kỷ Dậu-1729). Đầu đề tấm bia ghi rằng: 大越國王敕賜河中寺煥碧禪師塔記銘 (Đại Việt Quốc Vương Sắc Tứ Hà Trung Tự Hoán Bích Thiền Sư Tháp Ký Minh). Bia nầy được dựng trước Tháp Tổ sư Nguyên Thiều tại ấp Thượng Một làng Dương Xuân Thượng thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Nội dung khắc trong bia đá ghi rõ những mốc thời điểm quan trọng rằng:
“… Tổ sư Nguyên Thiều sinh vào giờ Tuất ngày 18 tháng 5 năm Mậu Tý (1648) … năm 19 tuổi xuất gia đầu sư với Hòa thượng Khoáng Viên tại chùa Báo Tư … vào năm Ất Tỵ (1665) Tổ sư sang Việt Nam đầu tiên lập chùa Thập Tháp tại phủ Quy Ninh … đến ngày 19 tháng 10 năm Mậu Thân (1728) Tổ sư viên tịch, thọ 81 tuổi. Thời gian sống ở Việt Nam hơn 50 năm … Ban vào ngày mồng 8 tháng 4 năm Bảo Thái thứ 10” [1].
Như vậy chúa Nguyễn Phước Trú ban bài ký-minh không đầy 6 tháng sau khi Tổ sư viên tịch. Những mốc thời điểm ghi chép khá rõ ràng, nhưng khi xét ra thì lại có một điểm mâu thuẫn lớn rằng: Tổ sư sinh năm Mậu Tý (1648) tính đến năm Ất Tỵ (1665) chỉ mới 17 tuổi, chưa xuất gia thọ giới mà đã sang Việt Nam lập chùa Thập Tháp, điều nầy không thể chấp nhận được. Như vậy, trong những mốc thời điểm nêu trên nhất định có một sự nhầm lẫn nào đó, chúng ta cần phải tìm hiểu và nhận định trên những cứ liệu để đi đến một kết luận hợp lý và chính xác hơn.
Ghi chép sớm nhất về Tổ sư Nguyên Thiều là bài ký-minh của chúa Nguyễn Phước Trú ban cho tổ sư Nguyên Thiều. Tấm bia nầy được tạo lập sau khi Tổ sư viên tịch chưa đầy sáu tháng và được dựng ngay trước tháp Tổ sư. Còn bia đá ghi bài ký – minh hiện ở chùa Quốc Ân là bản sao nguyên văn của bia đá ở ngôi tháp Tổ, được thực hiện cách đây hơn 100 năm bởi Hòa thượng Liễu Chơn – Từ Hiếu trú trì chùa Quốc Ân. Hòa thượng Liễu Chơn viên tịch vào năm Thành Thái thứ 2 (1890), hưởng thọ 77 tuổi. Nội dung bài ký – minh trong bia ghi lại rõ ràng những mốc thời điểm cần thiết, đủ làm một bảng tóm tắt về thân thế, hành trạng và sự nghiệp của Tổ sư. Chỉ tiếc là trong đó có một sự nhầm lẫn để phải gây ra một mâu thuẫn lớn, rồi từ đó đưa đến những suy đoán thiếu căn cứ, tạo ra những hoang mang, rối rắm cho những người nghiên cứu.
Chung quy, cứ trong bài ký – minh của bia đá mà xét thì sự nhầm lẫn nào chúng ta có thể chấp nhận được và nhầm lẫn nào không thể chấp nhận. Theo nguồn tư liệu thứ nhất cho rằng Tổ sư sang Việt Nam vào năm Ất Tỵ (1665) là đúng, còn năm sinh và năm tịch trong bia là sai, phải nói là sai chứ không thể nói nhầm lẫn, vì nếu nhầm lẫn thì chỉ nhầm lẫn ở năm sinh nếu không thì ở năm tịch, chứ không thể nhầm lẫn một lúc cả năm sinh lẫn năm tịch. Sự thật niên đại Sinh – Tịch của Tổ sư ghi trong bia đá tính ra đúng là Tổ sư thọ 81 tuổi (Sinh Mậu Tý – 1648 và Tịch Mậu Thân – 1728). Hơn nữa niên đại nầy chính chúa Nguyễn Phước Trú ghi lại sau khi Tổ sư viên tịch không đầy 6 tháng. Như vậy, cho rằng niên đại Sinh – Tịch nầy là sai để phải đi tìm một niên đại khác, e rằng điều nầy có quá miễn cưỡng hay không?
Theo nguồn tư liệu thứ hai nêu trên, cho rằng Tổ sư sang Việt Nam vào năm Đinh Tỵ (1677) chứ không phải năm Ất Tỵ (1665). Ở đây hai chữ Đinh Tỵ (丁巳) và Ất Tỵ (乙巳) chúng ta chỉ thấy khác nhau chỉ có một chữ đầu là chữ Đinh (丁) và chữ Ất (乙) mà thôi. Vì vậy chúng ta có thể nói rằng đây chỉ là sự nhầm lẫn của người ghi chép hay chạm khắc bia đá, trong vấn đề ghi chép xưa nay sự nhầm lẫn xảy không phải là không có. Hơn nữa, tính từ năm sinh của Tổ sư (Mậu Tý – 1648) đến năm Đinh Tỵ (1677), Tổ sư sang Việt Nam được tròn 30 tuổi (tính theo tuổi Ta). Như vậy, Tổ sư 19 tuổi xuất gia, 30 tuổi sang Việt Nam là điều hợp lý. Vả lại, tính từ năm Tổ sư sang Việt Nam (Đinh Tỵ – 1677) đến năm viên tịch (Mậu Thân – 1728) là 51 năm, trùng hợp theo sự ghi chép trong bia ký. Lập luận trên đây là chỉ để một lần nữa xác định lại niên đại Sinh – Tịch của tổ sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch và năm Tổ sư sang Việt Nam lập chùa Thập Tháp.

Trên đường du hóa từ Trung Hoa đến Việt Nam, năm Đinh Tỵ (1677), thiền sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch chấn tích nơi đồi Long Bích (thuộc tỉnh Bình Định), thấy cảnh núi sông thanh tú, trải toạ cụ ngồi kiết già nhập thiền định, rồi dựng lên ngôi chùa Thập Tháp Di Đà để làm cơ sở đầu tiên, khai mở sự nghiệp truyền bá Chánh pháp.
Trải qua nhiều thế kỷ cho đến ngày nay, chùa Thập Tháp vẫn giữ được vẻ uy nghiêm cổ kính. Các vị thiền sư thừa kế, tiếp tục phát huy giáo lý Phật Đà làm cho Phật Pháp được truyền bá rộng rãi khắp mọi nơi. Trong thời gian thiền sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch khai sáng và xây dựng chùa Thập Tháp ở vùng đất Bình Định, thì ở Thuận Hóa năm 1682, thiền sư Minh Châu – Hương Hải dẫn hơn 50 đệ tử bỏ ra Đàng Ngoài. Do đó đất Xuân Kinh thiếu vắng Tăng tài gánh vác Phật sự. Vì vậy mà chúa Nguyễn Phước Tần (1648-1687) cho mời thiền sư Nguyên Thiều trở ra Thuận Hóa thay cho thiền sư Minh Châu – Hương Hải hoằng dương Phật Pháp.
Sau một thời gian khai sáng và xây dựng, chùa Thập Tháp Di Đà được hoàn thành vào năm Chánh Hòa thứ 4 (1683). Sau đó tổ sư Nguyên Thiều phải vội vã lên đường ra Xuân Kinh làm Phật sự theo lời mời của chúa Hiền. Chùa Thập Tháp được giao phó lại thiền sư Tánh Đề – Đạo Nguyên tạm thời đảm trách. Từ đó về sau, các vị Thiền sư như Minh Giác – Kỳ Phương, Thật Kiến – Liễu Triệt, Tế Đoan – Hạo Nhiên… nối tiếp chí hướng cao cả của Tổ sư Nguyên Thiều, đem hết khả năng của mình tiếp tục xây dựng mở mang chùa viện, hoằng dương Chánh Pháp lợi lạc quần sanh, khiến cho Đạo mạch tại Tổ đình Thập Tháp được lưu truyền một cách liên tục đến tận ngày nay.
Căn cứ vào bài thi tụng của thiền sư Đạo Nguyên khắc trên bảng gỗ ngay trên gian cửa trước ngôi Bảo Điện: “Thập tòa dũ ư Đa Bảo tháp, môn tiền bất dụng thiết tam xa. Chỉ kim Tịnh Độ thành như thị, ưng tợ trùng lai thính Pháp Hoa”. Bên phải bài tụng ghi: “Ất Dậu đông nguyệt đề ư Thập Tháp tự. Đạo Nguyên thiền tọa hoa đình ngộ cảo”. Bên trái ghi: “Kỷ Tỵ niên trùng khắc”. Như vậy là ngôi Chánh Điện uy nghiêm đồ sộ hiện nay được xây dựng lại, hoàn thành vào năm Kỷ Tỵ (1749), nhằm vào thời thiền sư Thật Kiến – Liễu Triệt (1702 – 1764) trú trì. Chúng ta cũng đã biết rằng Phật giáo Đàng Trong tuy được các chúa Nguyễn hâm mộ và tận tình giúp đỡ, nhưng vì chiến tranh liên tiếp xảy ra giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn ngay tại đất Bình Định, cho nên chùa Thập Tháp cũng vì đó mà chịu nhiều ảnh hưởng tàn phá của chiến cuộc.
Sau khi chiến tranh chấm dứt, vua Gia Long lên ngôi năm 1802, Hòa thượng Liễu Trí – Huệ Nhật (1752 – 1826) lại một lần nữa tổ chức trùng tu chùa sau một thời gian dài thiệt hại bởi chiến tranh. Lần trùng tu nầy được sự đóng góp lớn lao của Hòa thượng Tổ Ấn – Mật Hoằng. Lúc bấy giờ Hòa thượng Mật Hoằng hiện là Tăng Cang chùa Thiên Mụ (1735-1835) kiêm trú trì chùa Quốc Ân. Trong “Đại Nam Nhất Thống Chí” có ghi rằng: “Minh Mạng nguyên niên, thầy tu ở tại chùa Linh Mụ là Hòa thượng Mật Hoằng trùng tu lại, chùa chiền rộng rãi, sơn son thếp vàng huy hoàng, cùng với chùa Linh Phong, nổi tiếng thắng cảnh ở Bình Định”. Trong dịp đại trùng tu nầy, Hòa thượng Mật Hoằng cho trùng khắc lại bức hoành đề tên chùa Sắc tứ Thập Tháp Di Đà Tự. Bức hoành nầy nguyên là của chúa Nguyễn Phước Chu – Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng Đế (1691 – 1725) sắc ban cho chùa.
Đến đời Hòa thượng Đạt Lượng – Hưng Long (1792 – 1860) trú trì, Hòa thượng chủ trương “dĩ nông vi thiền”, cùng với tăng chúng khai khẩn ruộng nương, trực tiếp canh tác. Ngoài ra, Hoà thượng còn vận động mua thêm có đến trăm mẫu ruộng để tăng gia sản xuất, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu sinh hoạt của Tổ đình và đời sống tu học của tăng chúng đông đảo mà không cần phải dựa vào sự đóng góp cúng dường của quần chúng phật tử. Trải qua đến đời Hòa thượng Ngộ Thiệu – Minh Lý (1836 – 1889) trú trì, chùa Thập Tháp được mở mang rộng rãi. Hòa thượng trùng tu chùa tháp, tôn tạo hầu hết các pho tượng Phật, Bồ tát và A La Hán làm cho ngôi Tổ đình càng thêm trang nghiêm cổ kính. Đến năm Thành Thái thứ 5 (1893), Tăng cang Chơn Châu – Vạn Thành (1865 – 1905) đứng ra chú tạo một cổ Đại Hồng Chung nặng một ngàn cân, hiện tồn tại cho đến ngày nay. Tiếp đến là Quốc sư Chơn Luận – Phước Huệ (1869 – 1945) xây dựng ngôi Phương trượng và cổng Tam quan vào năm Giáp Tý (1924). Hòa thượng Phước Huệ đương thời là bậc kỳ tài, thông kim bác cổ, làu thông Tam tạng. Hòa thượng đã đứng ra mở trường giảng dạy Kinh, Luật, Luận và tăng chúng khắp nơi xa xôi tụ hội về tham học đông đảo. Đến thời Hòa thượng Không Hoa – Huệ Chiếu (1898 – 1965) chùa chiền cũng bị hư hao nhiều bởi hệ quả của chiến tranh. Năm 1956, Hòa thượng tổ chức đại trùng tu ngôi Đại hùng Bảo Điện và sau đó tổ chức lễ lạc thành rất là trọng thể. Tiếp đến Hòa thượng Không Tín – Kế Châu (1922 – 1996) kế vị trú trì, Hòa thượng tái thiết lại ngôi Giảng đường khang trang rộng rãi, xây dựng lại tường thành và tu bổ tất cả những ngôi tháp Tổ lâu năm sụp đổ. Với hạnh nguyện “Tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”, năm 1970, Hòa thượng thành lập Phật Học Viện Phước Huệ để đào tạo tăng tài. Đến năm 1995, Hòa thượng đứng ra tổ chức lễ khởi công đại trùng tu ngôi tổ đình Thập Tháp. Lần trùng tu nầy được sự hỗ trợ kinh phí của Hòa thượng Truyền Như (đệ tử của Hòa thượng Không Hoa – Huệ Chiếu) và Hòa thượng Viên Lý (đệ tử của Hòa thượng Không Tín – Kế Châu), hai vị hiện đang hành đạo, thực thi sứ mạng truyền bá Phật Pháp tại Mỹ quốc. Tiếc thay Phật sự trùng tu chưa hoàn thành thì Hòa thượng vội vàng quảy dép về Tây, Phật sự trọng đại nầy được giao phó lại cho vị đệ tử lớn là Hòa thượng Viên Định thừa kế trú trì, tiếp tục đảm trách phật sự trùng tu Tổ đình.
Như vậy, Tổ đình Thập Tháp từ thành lập đến nay trên ba thế kỷ, trải qua liên tiếp nhiều đợt trùng tu kiến thiết quy mô. Theo lời các vị Hòa thượng tôn túc hiện nay tại tổ đình Thập Tháp cho biết, cứ khoảng 40 đến 50 năm thì có một cuộc đại trùng tu và trong đó còn có những đợt tu sửa bổ khuyết nhỏ, nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc ban đầu của chùa. Vì vậy, mặc dầu trải qua thời gian lâu dài, bao nhiêu biến chuyển thăng trầm của lịch sử, Tổ đình Thập Tháp ngày nay chẳng những tồn tại với dáng vẻ uy nghiêm cổ kính mà còn mỗi ngày mỗi thêm mở mang rộng lớn. Đạo mạch được nối tiếp truyền thừa, đồ chúng mỗi ngày mỗi thêm đông đảo. Sự nghiệp như vậy quả thật không cô phụ chí nguyện của tổ sư Nguyên Thiều, mà ngược lại còn làm cho cơ đồ Phật Pháp càng thêm phong quang khởi sắc, chẳng những chỉ ở tại vùng đất Quy Nhơn – Bình Định mà còn lan truyền khắp cả xứ sở miền Trung và miền Nam nước Việt. Hơn thế nữa, Tổ đình Thập Tháp Di Đà xưa nay không những là một ngôi đại tòng lâm được xếp vào hàng Danh lam cổ tự của đất nước mà còn là một Phật trường đào tạo tăng tài từ thế hệ nầy đến thế hệ khác. Đây là điều kiện tối yếu trong vấn đề duy trì, xiển dương Chánh Pháp mà Tổ đình Thập Tháp đã thể hiện rất rõ nét từ khi vừa khai sáng và được truyền thừa một cách liên tục cho đến tận ngày nay. Các vị Hòa thượng trú trì đều là những bậc danh tăng xuất chúng, tài đức vẹn toàn, vì vậy mà rất nhiều vị được các vua chúa nhà Nguyễn mời ra kinh đô giảng dạy Phật Pháp, thừa đương Phật sự tại vùng Thuận Hóa như: Hòa thượng Minh Giác – Kỳ Phương, Thật Kiến – Liễu Triệt, Tế Trí – Hữu Phỉ, Quốc sư Chơn Luận – Phước Huệ, v.v…

Trong tập “Sự Tích Nhân Do Xuất Thế của Thiền Sư Pháp Chuyên – Luật Truyền” có chép rằng: Tại Tổ đình Thập Tháp, Hòa thượng Liễu Triệt là một bậc danh cái nhất thời, tiếng tăm lừng lẫy khắp cả nước, nội điển ngoại điển làu thông, đức độ trùm khắp, thuyết pháp độ sanh lợi ích vô số. Cho nên thiền sư Pháp Chuyên – Luật Truyền từ xa nghe danh, lặn lội tìm đến yết kiến tổ sư Liễu Triệt và lưu lại nhiều năm để tham vấn tu học cùng với tăng chúng đông đảo.
Gần đây trong thời cận đại, quốc sư Phước Huệ là một bậc danh tăng, uyên thâm Phật Pháp và được mọi người tôn xưng danh hiệu “Phật Pháp Thiên Lý Câu” ý nói rằng Quốc sư như một tuấn mã quí báu trong Phật Pháp, một khi cất bước vượt xa ngàn dặm. Quốc sư một đời chăm lo dạy dỗ, mở trường đào tạo tăng tài. Tăng chúng khắp cả nước qui tụ theo Ngài học đạo, về sau hầu hết đều trở thành những bậc lương đống của ngôi nhà Phật pháp. Đến đời đệ tử Quốc sư là Hòa thượng Không Tín – Kế Châu cũng noi theo chí hướng “tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức” đứng ra mở Viện Phật học, để tưởng nhớ công đức sâu dày của bổn sư nên đặt tên trường là “Phật học viện Phước Huệ”. Tăng chúng trong tỉnh và ngoài tỉnh quy tụ về Tổ đình tu học rất đông đảo. Như vậy xét về lĩnh vực giáo dục đào tạo, chúng ta thấy rằng chùa Thập Tháp từ khi sáng lập trải đến ngày nay quả thật xứng danh là một Phật trường, là nơi đào tạo tăng tài theo quy cách thiền gia, bền bỉ liên tục suốt một bề dày lịch sử trên 300 năm. Quả thật xứng danh với ý nghĩa hai câu liễn đối của Chúa Nguyễn Phước Khoát (1738 – 1765), Đạo hiệu Từ Tế Đạo Nhân ban tặng, hiện treo tại ngôi Chánh điện, được Hòa thượng Kế Châu dịch như sau:
– Sư tử thật nào luận dương nanh, bách thú độn mình lặn dấu.
– Lò đúc lớn thét vàng lọc thép, nhất thời rèn ảnh luyện hình.
Sau đây là bài thơ của Đăng Đạo vịnh Chùa Thập Tháp:
Mười tháp khuất cao sương
Trang nghiêm cảnh phạn đường
Hiên lồng trăng Tịnh Độ
Vườn đọng nước Kim Cương.
Nguyên Thiều công nổi núi
Bình Định gió sanh hương
Kinh truyền ba tạng đủ
Nguồn đạo thắm muôn phương.
* Chú thích:
[1] Toàn bộ nội dung bài Ký-Minh nầy được chép lại đầy đủ ở PHẦN PHỤ LỤC cuối tập.